Một khi lãnh
đạo dám đứng ở “đầu sóng, ngọn gió” thì cán bộ, đảng viên bên dưới sẽ gạt bỏ được
nỗi sợ trách nhiệm; dấn thân, sáng tạo, cống hiến và dám nghĩ, dám làm.
Đường dây
siêu cao áp 500 KV và luật Doanh nghiệp năm 1999 là 2 dự án mang tính bước ngoặt
gắn với hình ảnh của 2 cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải. Nó cho thấy,
một khi lãnh đạo dám đứng ở “đầu sóng, ngọn gió” thì cán bộ, đảng viên bên dưới
sẽ gạt bỏ được nỗi sợ trách nhiệm; dấn thân, sáng tạo, cống hiến và dám nghĩ,
dám làm
“CẤP TRÊN
DÁM LÀM, BẢO VỆ THÌ MÌNH CÒN SỢ GÌ”
Nhắc lại kỷ
niệm với cố
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông Trần Viết Ngãi (nguyên Phó ban Chỉ đạo dự án đường dây 500 KV, Chủ tịch
Hiệp hội Năng lượng VN) nhớ như in, Tết Tân Mùi năm 1991 tại trụ sở Công ty điện
lực 2 (72 Hai Bà Trưng, Hà Nội), Thủ tướng Võ Văn Kiệt gọi Bộ trưởng Năng lượng
Vũ Ngọc Hải và một số cán bộ lên hỏi chuyện. Ông Kiệt nói: “Miền Bắc thừa điện,
các chú có cách gì đưa điện từ Bắc vào Nam được không?”. Ông Hải báo cáo
trên thế giới chỉ
có đường dây 400 KV, dài nhất là 700 km, chưa nước nào làm đường dây 500 KV dài
hơn 1.700 km.
Dù nhiều ý kiến
phản đối nhưng với ý chí và quyết tâm cao độ, ông Kiệt ra “tối hậu thư” phải
hoàn thành dự án bằng mọi giá trong thời gian 2 năm. Một thời hạn mà đội cán bộ
trẻ như ông Hải, ông Ngãi… nghĩ đến thôi đã thấy sợ. Chưa kể, lúc đó đất nước
còn nghèo, dự án hơn 5.700 tỉ đồng lấy đâu ra tiền; kỹ thuật của ngành điện thì
chủ yếu làm thủ công bằng 2 bàn tay, làm gì có trực thăng, máy xúc, máy đào…
“Nếu lúc đó
Thủ tướng Võ Văn Kiệt không quyết tâm làm tới cùng, thì có lẽ công trình đường
dây 500 KV sẽ không bao giờ được thực hiện. Kể từ ý tưởng đến khi triển khai vấp
phải rất nhiều ý kiến phản đối, thậm chí ngay trong Bộ Chính trị. Ông Kiệt vẫn
rất kiên định. Tuần nào cũng họp giao ban, khó ở đâu gỡ ở đó. Chỉ đạo sát sao bất
kể ngày đêm”, ông Ngãi hồi tưởng Sau 2 năm thi công thần tốc, đường dây 500 KV
đã hoàn thành. Chiều 27.5.1994, Bộ trưởng Năng lượng Thái Phụng Nê báo cáo với
Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Báo cáo anh Sáu (Sáu Dân, bí danh của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt), chiều nay chúng ta chính thức đóng điện”. Chiều hôm đó, ông Kiệt trực tiếp
đến Trung tâm điều độ điện quốc gia (Bộ Năng lượng, số 18 Trần Nguyên Hãn) để
kiểm tra tình hình. Ông Thái Phụng Nê nhớ lại, khi đó hòa điện mạch trên màn
hình có 2 đường sáng đi loằng ngoằng, chập vào nhau nếu đứng là thành công,
nhưng 2 lần chập vào lại nhảy ra. Đến lần thứ 3 thành công thì tất cả đều hò
reo mừng rõ. Ông Kiệt cũng thở phào như trút bỏ được bao sức ép.
Ông Nê kể, rất
nhiều chuyên gia và nhà khoa học phản đối vì cho rằng dự án bất khả thi, viển
vông. Không thể cắm được cột trên các đỉnh núi cao, không thể hòa điện do lệch
bước sóng… Quốc hội (QH), Bộ Chính trị cũng có nhiều ý kiến không thuận. Tại kỳ
họp QH vào tháng 6.1993, Chủ tịch QH Nông Đức Mạnh chủ trì, các đại biểu vẫn chất
vấn rất gay gắt các vấn đề xung quanh việc xây dựng đường dây 500 KV. Chủ tịch
MTTQ Lê Quang Đạo hỏi ông Kiệt: “Anh làm có được Bộ Chính trị cho ý kiến
không?”. Ông Võ Văn Kiệt trả lời: “Bộ Chính trị đã quyết định”. Ông Đạo hỏi lại:
“Quyết định thì văn bản đâu?”. Lúc đó Bộ Chính trị không ra văn bản, ông Kiệt
nói: “Tôi là đảng viên đảng cộng sản mà ý kiến của đồng chí Tổng bí thư giao
cho tôi làm thì tôi chấp hành thôi”.
“Dự án đường
dây 500 KV khi đó Bộ
Chính trị không quyết định thì khó làm, nhưng cũng có những ý kiến
không thống nhất, thành ra Bộ Chính trị không ra văn bản. Chuyện đó cũng là hết
sức bình thường. Thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết tâm làm và tuyên bố nếu không làm
được sẽ từ chức. Đó là một hình ảnh mà bây giờ chúng ta cần phải noi gương về
trách nhiệm người đứng đầu, bản lĩnh dám quyết định, dám chịu trách nhiệm”, ông
Nê chia sẻ.
Nhớ lại chuyện
này, theo ông Ngãi, khi đó trong Bộ Chính trị cũng có nhiều điều ra, tiếng vào.
Một số nhà khoa học phản đối, gây ra mâu thuẫn, xích mích. Cũng có người bị kỷ
luật, xử lý vì liên quan đến một số sai phạm.
Tôi hỏi ông,
động lực ở đâu để cán bộ trẻ như ông dấn thân, cống hiến hết mình như vậy, ông
Ngãi nói: “Phải có thủ trưởng giỏi, có tâm, có tầm và dám chịu trách nhiệm. Dự
án này ý tưởng là của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông sát sao, quan tâm, thôi thúc
và thương dân, thương lính. Động lực vì đất nước nghèo quá, dân khổ quá, mình lại
là đảng viên thì phải xông pha vào trận địa. Cái cốt nhất là mình được tin tưởng
nên thỏa sức cống hiến”.
Cũng có những
cán bộ bị kỷ luật, ông không sợ à? Ông Ngãi khẳng khái: “Mình có ăn cướp, bòn
rút gì của dân đâu. Hồi đó không có tệ tham nhũng, lừa đảo, con người sống thật
thà lắm. Bên trên thì có ông Kiệt bảo vệ. Họp ông nói ai không làm, không đồng
hành thì đứng sang một bên. Ông bảo đúng cứ làm, sai thì sửa không sợ gì hết.
Trên đời này có ai làm đúng hoàn toàn đâu, trong tâm địa mình tốt là được. Tâm
là trái tim, địa là tấm lòng, tâm hồn, trí tuệ, bản chất của mình. Mình làm
không vụ lợi, động cơ trong sáng, không lừa đảo, tham nhũng, ăn cướp của dân
thì không sợ gì cả”.
NGƯỜI LÃNH
ĐẠO PHẢI ĐỨNG “ĐẦU SÓNG, NGỌN GIÓ”
Cả ông Ngãi
và ông Thái Phụng Nê cho rằng, mình may mắn vì được “đứng cùng hàng ngũ” với những
nhân vật của lịch sử như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Được truyền lửa, được bảo vệ,
được tự do sáng tạo, thoải mái suy nghĩ. Đây cũng là lý do quan trọng mà theo
ông, Bộ Chính trị vừa ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích
và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Muốn bảo vệ được cấp dưới,
muốn họ không sợ trách nhiệm thì trước hết cấp trên, người đứng đầu phải dám đứng
trước “đầu sóng, ngọn gió”, gánh vác, dám đột phá.
Tinh thần đột
phá, cải cách của người đứng đầu không chỉ khiến cán bộ tự tin hơn, nhiệt huyết
hơn mà còn giúp họ có tư duy sáng tạo. Nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế
T.Ư (CIEM), TS Nguyễn Đình Cung cũng hồi tưởng những tháng năm chấp bút cho bộ
luật Doanh nghiệp (DN).
Vào những năm
1999, sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1997, ông cảm nhận được sự trỗi dậy mạnh mẽ
về tư tưởng cải cách, đổi mới dưới thời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Thủ tướng
Phan Văn Khải. Tinh thần đó đã giúp luật Doanh nghiệp 1999 tạo được bước đột
phá lớn trong lịch sử, vai trò của DN tư nhân được khẳng định. Luật quy định DN
được kinh
doanh những gì nhà nước cho phép sang DN được kinh doanh những gì pháp
luật không cấm, được quyền tự kinh doanh. Kết quả, DN tư nhân được giải phóng,
hàng trăm nghìn DN được thành lập, đóng góp lớn vào phát
triển kinh tế.
Ông Cung nhớ
lại, khi dự thảo luật được trình ra QH có rất nhiều ý kiến phản đối. Bà Phạm
Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng Phan Văn Khải,
cũng cho biết sức ép khi đó rất lớn đặc biệt khi triển khai luật, song thái độ
của người lãnh đạo như ông Thủ tướng Phan Văn Khải rất mạnh mẽ nên những người
phản đối cũng bị thuyết phục.
Ông Khải khi
đó yêu cầu thành lập ngay tổ thi hành luật DN 1999. Cắt giảm một lúc hơn 100 điều
kiện kinh doanh. Ông nói cần phải xóa bỏ giấy phép con, tạo điều kiện thuận lợi
cho môi trường kinh doanh. Đến bây giờ, nhiều chuyên gia quốc tế khi đánh giá về
quá trình 30 năm đổi mới của nước ta, họ vẫn cho rằng luật DN năm 1999 là cú
hích, là sự đột phá lớn nhất mà VN có được về thể chế. Cũng nhờ sự cải cách thể
chế thông qua cải cách luật pháp mà VN vừa có thêm động lực tăng trưởng mới cho
DN tư nhân trong nước, vừa giúp đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997.
Bà Phạm Chi
Lan cho rằng, từ những hình ảnh của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, có thể
thấy Kết luận số 14-KL/TW có một điểm rất quan trọng là khi người lãnh đạo gạt
bỏ được sự bảo thủ, sợ trách nhiệm, dám đổi mới thì chắc chắn cán bộ, cấp dưới
sẽ tự tin để đột phá, dám nghĩ, dám làm. Bác Hồ đã dạy: “Tư tưởng bảo thủ như
những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải
có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm”. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng
đã nhiều lần nhấn mạnh cần phải kiên quyết chấn chỉnh, đấu tranh loại bỏ tư tưởng
“phòng thủ”, “che chắn”, giữ “an toàn” trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Những ai có tư tưởng này thì hãy dẹp sang một bên
cho người khác làm
0 nhận xét: