24/6/22

Chống luận điệu xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

 


Nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, các cơ quan, đơn vị và cá nhân mỗi chúng ta.

Đây là khẳng định của TS Nguyễn Dũng Anh – Trưởng khoa Lãnh đạo học và Chính sách công, Học viện Chính trị khu vực 3 với phóng viên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

TS Nguyễn Dũng Anh cho biết: Phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển KTTT của các nước trên thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

“Tuy nhiên, hiện nay nhiều quan điểm khác biệt, thậm chí là trái ngược, xuyên tạc, gây cản trở đến quá trình thực hiện mô hình kinh tế này ở Việt Nam. Do vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, các cơ quan, đơn vị và cá nhân mỗi chúng ta”- TS Nguyễn Dũng Anh khẳng định.

Để phê phán, bác bỏ luận điệu cho rằng không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà các thế lực phản động, thù địch đang rêu rao, TS Nguyễn Dũng Anh thẳng thắn chỉ rõ: “Đây là luận điểm sai lầm”; đã đồng nhất KTTT với KTTT tư bản chủ nghĩa và chỉ có một loại KTTT là KTTT tư bản chủ nghĩa.

Theo phân tích của TS Nguyễn Dũng Anh: Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh tế hàng hoá. Các phạm trù (giá trị, giá cả, hàng hoá, tiền tệ), quy luật (giá trị, cạnh tranh, cung- cầu) của nền kinh tế hàng hoá là các phạm trù, quy luật của KTTT. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển KTTT tư bản chủ nghĩa. KTTT tư bản chủ nghĩa thời kỳ đầu mới ra đời là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có hoặc rất ít sự can thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của thị trường – “bàn tay vô hình”, ngoài những mặt tích cực còn đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước – “bàn tay hữu hình” để hạn chế, khắc phục những khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường. Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi “bàn tay hữu hình”. KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau mà có nhiều mô hình khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung định hướng can thiệp của nhà nước.

TS Nguyễn Dũng Anh cũng cho biết: KTTT là sản phẩm của văn minh nhân loại, không phải là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng KTTT làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. Đến nay đã xuất hiện nhiều mô hình KTTT ở các nước tư bản phát triển, như: KTTT tự do ở Mỹ, KTTT xã hội ở Đức, KTTT nhà nước phúc lợi ở Thuỵ Điển, KTTT phối hợp ở Nhật Bản… Các mô hình KTTT này ở những mức độ khác nhau, dù được thừa nhận hay không thừa nhận đều có các nhân tố khách quan XHCN. Đây là xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của CNXH ngay trong lòng các nước tư bản phát triển.

“Việt Nam đi lên CNXH từ một nước kinh tế chưa phát triển, bỏ quan chế độ tư bản chủ nghĩa nên việc phát triển KTTT định hướng XHCN là rất cần thiết, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển, từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Mô hình này là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”- TS Nguyễn Dũng Anh nhận định thêm.

Cùng với việc bác bỏ luận điểm “không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, TS Nguyễn Dũng Anh còn cho biết: Sẽ là sai lầm khi cho rằng các quy luật của KTTT và định hướng XHCN hoàn toàn đối lập nhau, loại trừ nhau. “Nền KTTT phải vận hành theo các quy luật của KTTT như quy luật cạnh tranh, giá trị cung- cầu…, trong đó quy luật giá trị là trung tâm. Đặc trưng của KTTT là cạnh tranh, các chủ thể kinh tế luôn cạnh tranh với nhau để chiếm các nguồn lực sản xuất, dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là sức ép, động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, hợp lí hoá tổ chức sản xuất; ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ, tăng năng suất lao động; đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh lọc các chủ thể kinh tế yếu kém. Mặt tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh là làm hàng giả, trốn thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, ăn cắp công nghệ…. Trong nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, nhất là ở các nước phát triển hiện nay, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, thúc đẩy, tôn trọng cạnh tranh lành mạnh; ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; điều tiết và giải quyết các thất bại của thị trường”- TS Nguyễn Dũng Anh chia sẻ.

“Quy luật giá trị là quy luật trung tâm, cơ bản của KTTT. Giá trị hàng hoá là lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá. Chi phí để sản xuất hàng hoá xét đến cùng là chi phí lao động, bao gồm lao động sống (lao động của người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá) và lao động quá khứ (lao động chi phí để sản xuất ra các tư liệu sản xuất được sử dụng để sản xuất ra hàng hoá này). Lượng giá trị là hao phí lao động xã hội cần thiết (hao phí lao động ở mức trung bình của xã hội, năng suất lao động trung bình, cường độ lao động trung bình, được hình thành do cạnh tranh). Giá trị biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị là hình thái của cải trong nền KTTT, là mục tiêu, là yếu tố chi phối mọi hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền KTTT”- TS Nguyễn Dũng Anh phân tích thêm.

Đồng thời TS cũng nhận định: “Tác động tích cực của quy luật giá trị là thúc đẩy chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, không ngừng hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ…. Tác động tiêu cực như khủng hoảng chu kỳ, phân hoá xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Trong nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị thông qua việc tạo khung khổ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận động để phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực”.

TS Nguyễn Dũng Anh khẳng định thêm: Sự điều tiết của quy luật cung – cầu được thể hiện khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ giảm xuống; khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả hàng hoá là tín hiệu của thị trường để các chủ thể kinh tế chuyển hàng hoá từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu, để các nhà sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất các hàng hoá thừa khi cung lớn hơn cầu, tăng cường, mở rộng sản xuất các hoàng hoá thiếu khi cung nhỏ hơn cầu. “Đó chính là sự điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung- cầu. Tuy nhiên, trong nền KTTT những người sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn muốn đè ép đối thủ nên dẫn đến sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ, tác động tiêu cực đến nền kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của quy luật cung- cầu và cơ chế tự điều tiết của thị trường. Nền KTTT có sự điều tiết của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước là để khắc phục những khiếm khuyết này, khắc phục những mất cân đối lớn, khủng hoảng chu kỳ do tự điều tiết của cơ chế thị trường gây ra”- TS Nguyễn Dũng Anh cho biết.

Nói về vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước trong nền KTTT, TS Nguyễn Dũng Anh thông tin: Các nền KTTT hiện đại trên thế giới hiện nay đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng, tạo môi trường hoạt động cho các quy luật KTTT; vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, tự phát do các quy luật KTTT gây ra; giữ môi trường ổn định cho phát triển kinh tế và hướng sự phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến an sinh xã hội.

Tuy nhiên, TS Nguyễn Dũng Anh cũng khẳng định: Dù nhà nước tư bản có sự điều chỉnh, điều tiết đến đâu thì bản chất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn là phục vụ cho thiểu số lợi ích của giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động; và khi nó còn tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì những mâu thuẫn đối kháng của xã hội tư bản chủ nghĩa do khuyết tật của nền KTTT tạo ra không những không mất đi mà ngày càng gia tăng và thêm gay gắt.

“Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; vai trò của nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,…”- TS Nguyễn Dũng Anh nhận định và chia sẻ thêm: Trong điều kiện đó, các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung – cầu trên thị trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,… Các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,….

“Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”- TS Nguyễn Dũng Anh nhấn mạnh.

Đồng thời TS khẳng định: Nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo không mâu thuẫn, đối lập, không cản trở hoạt động của các quy luật KTTT mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của các quy luật, để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, văn minh”. “Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

“Những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của CNXH và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Vì vậy, chắc chắn rằng, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN hoàn toàn không đối lập nhau, không loại trừ nhau trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam”- TS Nguyễn Dũng Anh khẳng định thêm./.

 

0 nhận xét: