Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng tồn tại đan xen nhau, đáp ứng nhu cầu về đời sống tâm linh và đời sống tinh thần của đông đảo người dân. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm tới quan điểm, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân và củng cố khối đại đoàn kết tôn giáo - dân tộc.
Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo đảm và được khẳng
định trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất - Hiến pháp. Trong từng giai
đoạn phát triển của đất nước, các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng bảo đảm ngày càng
tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân.
Sau khi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính
phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách “tín ngưỡng tự do và Lương,
Giáo đoàn kết”. Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời đã khẳng định Quyền tự do tín ngưỡng là một
trong năm quyền cơ bản của công dân. Điều 10, Chương II - Nghĩa vụ và quyền lợi
công dân ghi rõ: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất
bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong
nước và ra nước ngoài”. Với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực
hiện chính sách đối với tôn giáo trong phạm vi cả nước.
Trong bản Hiến pháp
năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày
31/12/1959, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được tiếp tục khẳng định
và mở rộng hơn, công dân không chỉ có quyền “theo tôn giáo” mà còn có quyền
“không theo một tôn giáo nào”. Điều 26, Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ
bản của công dân quy định: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Kế
thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và 1959, Hiến pháp năm 1980 ngoài việc
ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo, còn quy định
nội dung phòng ngừa việc lợi dụng tôn giáo để làm những điều trái pháp luật,
chính sách của Nhà nước: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 68, Chương V - Quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân).
Trong thời kỳ đổi
mới, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình và yêu cầu xây dựng, phát
triển đất nước, nhất là khi Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban
hành ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; đây
là văn kiện đổi mới đầu tiên, có tính “đột phá” của Đảng ta về vấn đề tôn giáo
và công tác tôn giáo, Vì vậy Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân đồng thời thể hiện quan điểm về sự bình đẳng giữa
các tôn giáo và trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước đối với nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo. Điều 70, Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Công dân có quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Trước yêu cầu của
công cuộc đổi mới toàn diện, nhằm đáp ứng, phù hợp với yêu cầu phát triển trong
giai đoạn mới, ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều. Hiến pháp năm 2013
có nhiều điểm mới, trong đó điểm đổi mới quan trọng là thể hiện quan điểm nhất
quán về vấn đề quyền và nghĩa vụ con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 hiến định như sau: “1. Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các
tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Theo đó, Hiến pháp năm
2013 có ba điểm mới về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện sự nhìn nhận
của Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân theo hướng ngày càng
hoàn thiện, dân chủ, bình đẳng, đó là: (1)Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một nội dung quan trọng của Chương II về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân; (2)Quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo không chỉ là quyền của “công dân” Việt Nam mà là quyền của tất cả “mọi
người”, không phân biệt quốc tịch, giới tính, độ tuổi; (3)Hiến
pháp năm 2013 nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của
Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giao.
Viêc ghi nhận quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định
chính sách nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người;
tạo môi trường pháp lý quan trọng cho các tổ chức, cá nhân hoạt động tôn giao;
đảm bảo sự tương thích với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký
kết hoặc gia nhập; đồng thời là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng mối
quan hệ ổn định, bền vững giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo.
Có thể thấy rằng, so
với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là một bước tiến quan trọng trong
việc hiến định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện sự kế thừa và phát
triển trong thời kỳ Việt Nam đổi mới và hội nhập sâu rộng với thế giới. Hiến
pháp năm 2013 cho thấy chính sách dân chủ của Nhà nước Việt Nam đối với tín
ngưỡng, tôn giáo, coi đó là một nhu cầu và là quyền tất yếu của mọi người, cần
phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để mọi người thực hiện tốt nhất
quyền đó.
Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ
bản của con người. Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ
chương, cơ chế, chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất
cho Nhân dân thực hành quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.
Hiến pháp - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất qua nhiều lần sửa
đổi đều đề cập đến vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng
ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho
giáo dân và tổ chức tôn giáo phát triển một cách lành mạnh và công
bằng nhất. Thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân có
ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc
vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc./.
Hình ảnh ở Đồng Nai
HVl
0 nhận xét: