18/11/25

QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

             Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng tồn tại đan xen nhau, đáp ứng nhu cầu về đời sống tâm linh và đời sống tinh thần của đông đảo người dân. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm tới quan điểm, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân và củng cố khối đại đoàn kết tôn giáo - dân tộc.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo đảm và được khẳng định trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất - Hiến pháp. Trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách “tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết”.  Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã khẳng định Quyền tự do tín ngưỡng là một trong năm quyền cơ bản của công dân. Điều 10, Chương II - Nghĩa vụ và quyền lợi công dân ghi rõ: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo trong phạm vi cả nước.

Trong bản Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 31/12/1959, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được tiếp tục khẳng định và mở rộng hơn, công dân không chỉ có quyền “theo tôn giáo” mà còn có quyền “không theo một tôn giáo nào”. Điều 26, Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân quy định: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.

Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và 1959, Hiến pháp năm 1980 ngoài việc ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo, còn quy định nội dung phòng ngừa việc lợi dụng tôn giáo để làm những điều trái pháp luật, chính sách của Nhà nước: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 68, Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân).

Trong thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình và yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước, nhất là khi Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; đây là văn kiện đổi mới đầu tiên, có tính “đột phá” của Đảng ta về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo, Vì vậy Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân đồng thời thể hiện quan điểm về sự bình đẳng giữa các tôn giáo và trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước đối với nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 70, Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, nhằm đáp ứng, phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới, trong đó điểm đổi mới quan trọng là thể hiện quan điểm nhất quán về vấn đề quyền và nghĩa vụ con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 hiến định như sau: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 có ba điểm mới về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện sự nhìn nhận của Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân theo hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, bình đẳng, đó là: (1)Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nội dung quan trọng của Chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; (2)Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là quyền của “công dân” Việt Nam mà là quyền của tất cả “mọi người”, không phân biệt quốc tịch, giới tính, độ tuổi; (3)Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giao.

Viêc ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; tạo môi trường pháp lý quan trọng cho các tổ chức, cá nhân hoạt động tôn giao; đảm bảo sự tương thích với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập; đồng thời là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ ổn định, bền vững giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo.

Có thể thấy rằng, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là một bước tiến quan trọng trong việc hiến định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện sự kế thừa và phát triển trong thời kỳ Việt Nam đổi mới và hội nhập sâu rộng với thế giới. Hiến pháp năm 2013 cho thấy chính sách dân chủ của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo, coi đó là một nhu cầu và là quyền tất yếu của mọi người, cần phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để mọi người thực hiện tốt nhất quyền đó.

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người. Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ chương, cơ chế, chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất cho Nhân dân thực hành quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Hiến pháp - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất qua nhiều lần sửa đổi đều đề cập đến vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo dân và tổ chức tôn giáo phát triển một cách lành mạnh và công bằng nhất. Thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc./.


                                                                Hình ảnh ở Đồng Nai

HVl

0 nhận xét: