30/5/18

Luật An ninh mạng sẽ giúp phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin chống Đảng, Nhà nước


          “Hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng là một thực trạng hết sức bức xúc, nhức nhối và đang diễn ra nhưng việc xử lý còn bị động, lúng túng, kém hiệu quả vì hệ thống pháp luật của ta chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý” – ĐBQH Bùi Mậu Quân cho biết.
          Thảo luận tại hội trường về Dự án Luật An ninh mạng sáng nay, 29-5, ĐBQH Bùi Mậu Quân (Hải Dương) cho biết:
          Thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, gây bức xúc trong xã hội. Đó là các hoạt động lợi dụng không gian mạng để hoạt động xâm phạm ANQG và TTATXH như tuyên truyền chống phá nhà nước, kích động biểu tình, bạo loạn, phá rối ANTT, hoạt động gián điệp, đánh cắp bí mật nhà nước…
          Hay gần đây nổi lên các hoạt động lừa đảo, trộm cắp, cờ bạc, cá độ, mại dâm qua mạng. Cao hơn là tấn công mạng, chiếm quyền điều khiển, khủng bố mạng và chiến tranh mạng. Đã xảy ra nhiều vụ để lại hậu quả hết sức nặng nề.
ĐBQH Bùi Mậu Quân

          Những vấn đề này là một thực trạng hết sức bức xúc, nhức nhối và đang diễn ra nhưng việc xử lý còn bị động, lúng túng, kém hiệu quả vì hệ thống pháp luật của ta chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý; nhất là chưa có hành lang pháp lý để ngăn chặn, đấu tranh hiệu quả những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, TTATXH, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng.
          ĐBQH Bùi Mậu Quân lấy ví dụ về vụ tin tặc tấn công chiếm quyền điều khiển của hệ thống máy chủ hãng Hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnamairlines), thay đổi nội dung và đưa ra các thông báo trên hệ thống màn hình hiển thị của Cảng hàng không quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất ngày 29-7-2016. Hậu quả đã làm chậm gần 100 chuyến bay, hệ thống gần 100 máy chủ bị phá hoại, không thể truy cập…
          “Chúng ta thử hình dung xem nếu hệ thống mạng máy chủ của các hãng hàng không quốc gia, hệ thống tài chính, ngân hàng, các cổng thông tin điện tử của Đảng, Chính phủ bị tấn công, chiếm quyền điều khiển hoặc bị phá hoại thì hậu quả sẽ như thế nào? Vì vậy, việc ban hành Luật An ninh mạng nhằm quy định các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH trên không gian mạng là hết sức cần thiết, phù hợp và đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn” – ĐBQH tỉnh Hải Dương nói.
          Đồng tình với quan điểm này, ĐBQH Lưu Bình Nhưỡng (Bến Tre) khẳng định ANQG là vấn đề vô cùng quan trọng, được quy định tại Điều 11 của Hiến pháp, bảo vệ ANQG là trách nhiệm rất cao cả, tinh thần đó không chỉ tồn tại ở luật này mà còn tồn tại ở các luật khác, như Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Hình sự…
          “Mục đích chính của luật này nhằm chống tội phạm xâm phạm ANQG, chống sử dụng hạ tầng không gian mạng và các thao tác khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao để chống phá, xâm phạm chủ quyền ANQG. Luật An ninh mạng được ban hành nhằm lấp khoảng trống mà Luật ANTTM chưa khắc phục được”, đại biểu nhận định.
ĐBQH Cao Đình Thưởng

          Về quy định doanh nghiệp nước ngoài phải đặt cơ quan đại diện và lưu trữ dữ liệu người sử dụng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam (điểm đ, khoản 2, Điều 26 dự thảo luật), ĐBQH Cao Đình Thưởng (Phú Thọ) bày tỏ ý kiến tán thành, bởi vì quy định như trên sẽ hữu ích nếu thực hiện được, nhằm kiểm soát dữ liệu người dùng, phục vụ điều tra, ngăn chặn, phòng chống tội phạm, chống xuyên tạc, phản động.
          “Theo báo cáo của UBQPAN, việc đặt trụ sở hoặc văn phòng đại diện sẽ gắn nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong việc phối hợp cung cấp thông tin, dữ liệu phục vụ điều tra, xác minh, xử lý vi phạm liên quan đến người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam; bảo đảm tính khả thi khi phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin chống Đảng, Nhà nước, vi phạm pháp luật của Việt Nam, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động chống phá của các đối tượng phản động, gián điệp trong và ngoài nước sử dụng không gian mạng” – đại biểu Cao Đình Thưởng phân tích.
          Cho rằng việc phải đặt cơ quan đại diện và lưu trữ dữ liệu là hết sức cần thiết, ĐBQH Nguyễn Hồng Vân (Phú Yên) nêu thực tế Facebook đã đặt văn phòng đại diện trên 80 nước, Google đặt địa chỉ trên 70 nước trên thế giới. Quy định như thế này sẽ đảm bảo chủ quyền đất nước ta và tạo điều kiện cho việc quản lý…
          Lý giải thêm về vấn đề này, ĐBQH Nguyễn Minh Đức (TP. Hồ Chí Minh) cho biết: Thứ nhất, về lưu trữ dữ liệu quốc gia quan trọng trong nước, hiện có 18 quốc gia đã quy định điều này. Như vậy thông lệ quốc tế đã có và chúng ta không phải quốc gia đầu tiên áp dụng vấn đề này.
          Về các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới hoặc các hiệp định chung về thương mại như CPTPP đều có các quy định ngoại lệ về an ninh. “Tức các quốc gia đều đặt vấn đề ngoại lệ về an ninh, cho phép tôn trọng, bảo vệ ANQG ở mức cao nhất. 18 quốc gia trên đều là thành viên của tổ chức thương mại thế giới và họ đều quy định như vậy thì chúng ta không có gì vi phạm thông lệ quốc tế”, ông Đức nhấn mạnh.
          Về cơ quan đại diện, Google và Facebook đều là những doanh nghiệp hoạt động cung cấp dịch vụ, đều có nghĩa vụ đóng thuế cho đất nước của họ là nước Mỹ. “Luật Thương mại (2005), Luật Ngoại thương (2017) và các văn bản hướng dẫn thi hành, trực tiếp là Nghị định 28 quy định chi tiết việc lập văn phòng đại diện đều quy định rõ, đó là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thì đương nhiên họ phải đặt văn phòng đại diện”- ĐBQH TP. Hồ Chí Minh thông tin thêm.
Quỳnh Vinh/Báo CAND

29/5/18

CÁI CHẾT CỦA ÔNG PHAN ĐÌNH DIỆU VÀ Ý THỨC CHÍNH TRỊ RẤT KÉM CỦA NHIỀU TRANG BÁO


Người Việt Nam mấy nghìn năm văn hiến luôn trọng tình trọng nghĩa, dù cuộc đời họ có sai lầm, vấp ngả, đạo đức chưa được chuẩn mực nhưng khi những con người đó ra đi, dân Việt ta luôn tha thứ, bỏ qua như “người chết là hết”.
Tuy nhiên, tha thứ không có nghĩa là ca ngợi một cách thái quá. Mới đây, nhân cái chết của “nhân xỹ” Phan Đình Diệu – một người khi sống những năm cuối đời luôn mạnh miệng kêu gọi đa nguyên, đa đảng thì hàng loạt tờ báo có lượng độc giả đông đảo như Vietnamnet; Tuổi Trẻ; Dân Trí; VnExpress; Zing đều mở hết công suất ca ngợi Phan ĐÌnh Diệu nào là“nhân cách”, nào là “tâm huyết, nhiệt huyết”, nào là “trí tuệ”.  Thật khó chấp nhận những điều không hề tồn tại khi Pham Đình Diệu tại thế.


Ở đây, ta không bàn đến ông Phan Đình Diệu nữa, hãy để cho ông sớm siêu thoát. Nhưng cái cách mà các tờ báo rầm rộ đưa tin thì chứng tỏ một điều rằng: ý thức chính trị của các tờ báo đó rất kém thậm chí không muốn nói rằng họ đang cổ xúy cho những kẻ chống đối.
Một trích đoạn trong bài viết của tác giả Đông La đã nói rất rõ ràng rằng Vietnamnet rất kém ý thức về chính trị: “Gần đây, trước cái chết của GS Phan Đình Diệu, VietNam.net, một trang báo điện tử lớn nhất nước thuộc Bộ “4 T” của ông Trương Minh Tuấn, đã đăng loạt bài thể hiện trình độ chính trị rất kém và hơi buồn cười.  Trình độ chính trị rất kém ở chỗ VietNam.net đã hết lời ca ngợi “trí tuệ” và “nhân cách” Phan Đình Diệu trong khi thể chế nước ta, theo lời người lãnh đạo cao nhất, TBT Nguyễn Phú Trọng (theo báo Nhân Dân. Online), vẫn khẳng định: “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… ”; còn GS Phan Đình Diệu đã từ lâu lại có những quan điểm hoàn toàn trái ngược, từng làm “nổi sóng” trên internet: “… rõ ràng lý luận về chủ nghĩa cộng sản và về chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác - Lênin không còn thích hợp với đòi hỏi mới của cuộc sống nữa”. Còn buồn cười vì nếu theo ý GS Phan Đình Diệu thì thể chế hiện tại sẽ không còn. Không có thể thể chế tất sẽ không có Bộ “4T’; không có Bộ "4T" sẽ không có cả ông BT Trương Minh Tuấn lẫn trang VietNam.net! Như vậy VietNam. Net đã ca ngợi người “đập niêu cơm” của chính mình!”.


28/5/18

Việt Tân bị lật tẩy chiêu trò kích động, xuyên tạc việc chính quyền Vũng Tàu giải toả 36 công trình xây dựng trái phép ven biển


Ngày hôm nay 26/5/2018, sau khi “đánh hơi” được thông tin về việc chính quyền thành phố Vũng Tàu vừa giải toả 36 công trình xây dựng trái phép ven biển, trang Việt Tân (một trong những trang mạng xã hội của tổ chức khủng bố Việt Tân) đã nhanh chóng xuyên tạc, kích động. Cụ thể, Việt Tân đã biên tập bài viết và sử dụng clip đăng tải thông tin sai sự thật lái dư luận hướng “chính quyền cướp đất của dân”. Tuy nhiên, cộng đồng mạng không lạ gì thủ đoạn này của Việt Tân.


Vậy sự thật khiến Việt Tân một lần nữa bộc lộ bản chất xuyên tạc là gì? Xin giới thiệu để quý độc giả biết, cảnh giác với những thông tin do Việt Tân dàn dựng, xuyên tạc đưa lên mạng xã hội.
Sáng 25-5-2018, lực lượng chức năng Phường 11 phối hợp với các cơ quan liên quan của TP.Vũng Tàu tiến hành cưỡng chế các công trình lấn chiếm, dựng nhà trên đất do nhà nước quản lý tại khu vực ven biển cuối đường D10, thuộc tổ 13, khu phố 1, phường 11, TP.Vũng Tàu. Tại buổi cưỡng chế, lãnh đạo UBND phường 11 đã đọc quyết định cưỡng chế đến từng hộ dân, đồng thời các lực lượng đã đưa đồ đạc, vật dụng gia đình ra khỏi nhà. Đa số người dân đều chấp hành, không cản trở lực lượng làm nhiệm vụ. Đến khoảng 10 giờ sáng cùng ngày, lực lượng chức năng đã cưỡng chế tháo dỡ được 11 căn nhà tạm.

Lãnh đạo UBND phường 11 công bố quyết định cưỡng chế đã gửi trước đó cho các chủ công trình vi phạm.
Trước đó, ngày 24/5, sau khi được vận động, thuyết phục, 2 trong tổng số 36 hộ vi phạm đã tự nguyện tháo dỡ công trình; lực lượng chức năng đã hỗ trợ họ di dời vật dụng ra khỏi nhà tạm để chuyển tới nơi ở mới.

Lực lượng chức năng giúp một hộ dân tự giác tháo dỡ, di dời vật dụng gia đình đến nơi ở mới.
Ông Lê Hưng, Chủ tịch UBND phường 11 cho biết, việc cưỡng chế nhằm thu hồi khu đất người dân lấn chiếm trái phép để bàn giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh thực hiện các chủ trương của tỉnh về phát triển khu đô thị ở đường 3/2 thuộc phường 10, 11.

Ban, ngành, đoàn thể phường 11 thuyết phục một hộ dân chấp hành việc cưỡng chế.

Người dân tự giác tháo dỡ công trình vi phạm.
Theo quy định, các hộ dân này lấn chiếm, dựng nhà trên đất do nhà nước quản lý nên không được hỗ trợ, bồi thường. Tuy nhiên, xét thấy những hộ gặp khó khăn về nhà ở, nên lãnh đạo TP. Vũng Tàu đã quyết định hỗ trợ mỗi hộ 2,5 triệu đồng; phường 11 hỗ trợ mỗi hộ 300 ngàn đồng.
Điều đáng nói là đa số công dân mạng đều đã biết bản chất xuyên tạc, kích động của Việt Tân nhưng cũng không ít người khi tiếp nhận thông tin do không tìm hiểu kỹ đã vội vàng tin theo hướng lái của Việt Tân nên đã bình luận, chia sẻ với quan điểm tiêu cực. Điều đó một lần nữa nhắc những người sử dụng mạng xã hội hãy tỉnh táo trước thông tin.
Nguồn: Báo Bà Rịa – Vũng Tàu



25/5/18

Cần bắt ngay tên phản động Lê Anh Hùng

          Hôm qua, 23/5/2018, trên các trang mạng lan truyền những bức ảnh Lê Anh Hùng cầm băng rôn trên phố có nội dung cực kỳ phản động như sau: "Yêu cầu nhà chức trách khởi tố và bắt giam tên trùm gián điệp Tàu Hoàng Trung Hải cùng tên Việt gian bán nước Nguyễn Phú Trọng kẻ đã bao che và đồng lõa với y mười mấy năm qua".
          Tìm hiểu được biết, Lê Anh Hùng chính là kẻ trực tiếp cầm băng rôn trên phố, và tự tay treo băng rôn đó tại cầu vượt trước Đại học Thuỷ Lợi, trên phố Tây Sơn, gần ngã tư Tây Sơn - Chùa Bộc, Hà Nội. Xem ảnh bên.
          Ngay sau khi Lê Anh Hùng đưa lên FB cá nhân, hàng ngàn đối tượng chống phá nhà nước trên mạng đã chia sẻ, phụ họa, tung hứng cho “hành động dũng cảm” này của Lê Anh Hùng.
          Với hành vi công khai tuyên truyền chống nhà nước như trên, rõ ràng Lê Anh Hùng đã vi phạm điều 117 Bộ Luật Hình sự. Việc bôi nhọ, vu khống xúc phạm, danh dự nhân phẩm của ông Hoàng Trung Hải và ông Nguyễn Phú Trọng là vi phạm điều 121, điều 122 Bộ Luật Hình sự.

          Đây không phải lần đầu tiên Lê Anh Hùng vu cáo ông Hoàng Trung Hải là gián điệp Tàu hay buôn ma túy. Ông Nông Đức Mạnh, TBT Nguyễn Phú Trọng cũng từng là nạn nhân của y.

           Lê Anh Hùng được biết đến là một trong những cây viết chống phá nhà nước một cách điên cuồng, bất chấp logic. Hùng cũng được biết đến với tư cách là kẻ hoang tưởng chính trị với trí tưởng tượng bệnh hoạn không thể tin nổi. Chính vì biểu hiện tâm thần không sợ hãi như vậy, nên gã được đám dân chủ cuội trong nước và một số đài phản động như BBC, VOA, RFA...mời cộng tác.
          Theo 1 nguồn đáng tin cậy, Lê Anh Hùng thực hiện hành vi này để được nhận 800 USD từ Việt Tân (tương tự như vụ treo khẩu hiệu tại cầu vượt Hải Phòng). Lý do Hùng phải thực hiện là để có thu nhập trong khi bị RFA cắt hợp đồng, trong bối cảnh Hùng không còn thu nhập nào khác.
          Rất có thể cái vỏ "bị bệnh tâm thần" đang bị chính Lê Anh Hùng và các thế lực chống phá Việt Nam lợi dụng cho việc tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật nêu trên.
          Một lần nữa, đề nghị công an Hà Nội bắt và xử lý Lê Anh Hùng ngay lập tức. Chúng tôi không thể chấp nhận những tên lưu manh chính trị như Lê Anh Hùng công nhiên chống phá nhà nước, bôi xấu lãnh đạo như thế được. Nếu không giải quyết dứt điểm, em rằng đây sẽ là tiền lệ rất xấu, đe dọa trực tiếp tới an ninh chính trị của đất nước.

24/5/18

Cộng đồng quốc tế phản đối việc Trung Quốc diễn tập máy bay ném bom ở Biển Đông


         Việc Trung Quốc đưa các máy bay ném bom có khả năng mang đầu đạn hạt nhân tham gia diễn tập quân sự và hạ cánh trên một đảo của quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) đang vấp phải sự phản đối kịch liệt của không chỉ các quốc gia láng giềng, trong khu vực mà tại nhiều trên thế giới.   
          Ngày 22-5, báo chí quốc tế đồng loạt lên tiếng phản đối về hành động này của Trung Quốc. Nhiều tờ báo còn gọi đây là “một trò chơi quyền lực táo bạo nhằm củng cố các yêu sách vô lý, trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc về chủ quyền lãnh thổ tại khu vực Biển Đông, nhất là tại những quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.
          Hãng tin Channel News Asia viết: “Trung Quốc đã thu hút các cuộc biểu tình ngoại giao sau khi để các máy bay ném bom tầm xa H-6K tham gia các cuộc tập trận trên một hòn đảo của quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) hôm 18-5. Các nhà phân tích cho rằng, một mặt bác bỏ mọi cáo buộc về quân sự hóa Biển Đông, mặt khác, chính quyền Bắc Kinh vẫn cho xây dựng một loạt sân bay, lắp đặt nhiều hệ thống radar và một số cơ sở hải quân trên chuỗi đảo nhân tạo mà nước này bồi đắp từ năm 2013”.

Máy bay ném bom chiến lược H-6K của Trung Quốc. Ảnh: PLA.
          Chưa hết, hãng Channel News Asia còn dẫn lời Bonnie Glaser – chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) ở thủ đô Washington (Mỹ) phân tích, các máy bay ném bom của Trung Quốc được cho là hạ cánh trên đảo có căn cứ quân sự lớn nhất ở quần đảo Hoàng Sa. Nhiều nguồn tin cho hay, đảo được nhắc đến ở trên là đảo Phú Lâm ở quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam).
          “Những cuộc tập trận quanh các đảo trên Biển Đông là những bước đi nhỏ nhằm từng bước thay đổi hiện trạng theo hướng có lợi cho Trung Quốc mà không gây ra phản ứng quân sự từ Mỹ. Sự tích tụ ổn định tài sản quân sự trên đường thủ, nhất là khu vực được cho là có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí tự nhiên cũng cho phép Trung Quốc “tác động mạnh đến các nước láng giềng yếu hơn.
          Trong thời bình, thông qua việc sử dụng một số lượng lớn các tàu thực thi pháp luật ở khu vực Biển Đông, Bắc Kinh còn tham vọng sẽ gây áp lực lên Việt Nam và Philippines, ngăn các quốc gia này khai thác năng lượng trong các vùng biển mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố quyền tài phán. Còn nếu xảy ra chiến tranh thì tài sản quân sự của Trung Quốc trên những hòn đảo này sẽ làm tăng sức mạnh và khả năng chống đỡ nếu Mỹ can thiệp quân sự”, bà Bonnie Glaser nhấn mạnh.
          Đồng quan điểm này, Giám đốc Chương trình an ninh quốc tế tại Viện Lowy của Australia Euan Graham cảnh báo: “Có động cơ chính trị rõ ràng trong hành động này. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lặp đi lặp lại việc phủ nhận rằng khu vực này đang được quân sự hóa, và rằng các máy bay ném bom đang tiến hành chương trình “huấn luyện bình thường”.
          Nhưng không phải vậy, hành động này mang tính biểu tượng và là sự phát triển quân sự quan trọng của Bắc Kinh trong việc hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò trên Biển Đông. Trung Quốc đã lắp đặt cơ sở hạ tầng hậu cần để vận hành máy bay, tiếp nhiên liệu, cất giữ vũ khí và phi hành đoàn… Đưa máy bay ném bom đến khu vực quần đảo Hoàng Sa và cả Trường Sa là Bắc Kinh cũng đang đưa miền Bắc Australia vào phạm vi có thể bị tấn công”.
          Có lẽ vì thế mà hôm 21-5, bên lề Hội nghị các Ngoại trưởng G20 ở Buenos Aires (Argentina), Ngoại trưởng Australia Julie Bishop cũng đã thẳng thắn nêu quan điểm phản đối của Australia về việc Trung Quốc đưa máy bay ném bom đến quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam).
          Bà Julie Bishop nói với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị: “Quan điểm của Australia rất rõ ràng và kiên định, và Trung Quốc nắm rất rõ. Quan ngại của chúng tôi là Trung Quốc đang quân sự hóa các thực thể tranh chấp ở Biển Đông”.
          Đồng thời, trong cuộc gặp với phía Mỹ bên lề Hội nghị Ngoại trưởng G20, bà Julie Bishop cũng đưa vấn đề Biển Đông ra bàn, cho biết sẽ thể hiện quyền tự do lưu thông hàng hải và hàng không ở Biển Đông, ủng hộ các nước khác cùng làm vậy.
          Các quốc gia khác ở khu vực châu Á cũng bày tỏ những lo ngại mới. Người phát ngôn của Tổng thống Philippines, ông Harry Roque cho biết, Manila “đặc biệt quan ngại” về sự hiện diện của các máy bay ném bom chiến lược Trung Quốc ở Biển Đông và đang độc lập xác minh thông tin này. Bộ Ngoại giao Philippines (DFA) thì thông báo đang theo dõi chặt chẽ các diễn biến trên Biển Đông.
          “Thông điệp phù hợp về các diễn biến gần đây đã được truyền tải thông qua kênh ngoại giao. Tuy nhiên, chính sách hiện tại của chúng tôi không ủng hộ công bố tất cả mọi hành động của Chính phủ Philippines mỗi khi có diễn biến trên Biển Đông”, thông cáo của DFA viết.
          Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã lên án cuộc diễn tập của Trung Quốc trên Biển Đông, khẳng định hành động quân sự này khiến “căng thẳng gia tăng và gây bất ổn khu vực”.
          Phát ngôn viên Lầu Năm Góc Christopher Logan mô tả cuộc diễn tập là hành động cho thấy Trung Quốc đang tiếp tục “quân sự hóa các thực thể tranh chấp trên Biển Đông và nhấn mạnh, Chính phủ Washington vẫn giữ cam kết thúc đẩy một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và mở cửa. Đô đốc Phil Davidson, chỉ huy mới vừa chính thức nhậm chức ngày 18-5 của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ nói rằng, những hành động của Trung Quốc là nhằm khẳng định ý đồ kiểm soát Biển Đông.
          Các căn cứ của Trung Quốc tại Biển Đông có thể được sử dụng để thách thức sự hiện diện của Mỹ tại khu vực này. Còn Thượng nghị sĩ thuộc đảng Cộng hòa James Inhofe trong bài phát biểu tại Quốc hội Mỹ nhấn mạnh: “Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã có các đường băng, hệ thống tên lửa… Mọi trang thiết bị Trung Quốc triển khai đều là quân sự. Điều này thực sự đáng lo ngại”.
          Việt Nam phản đối Trung Quốc diễn tập trên quần đảo Hoàng Sa
          Hôm 18-5,Tân Hoa xã dẫn nguồn tin quân sự cho biết không quân Trung Quốc đã tập trận trên quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam với sự tham gia của máy bay ném bom chiến lược H-6K đủ khả năng mang tên lửa hạt nhân. Một video chiếc H-6K hạ cánh và cất cánh chớp nhoáng trên một hòn đảo ở Biển Đông cũng được đăng tải bởi trang People’s Daily. Ngày 21-5, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định:
          “Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
          Việc Trung Quốc cho máy bay ném bom tiến hành các hoạt động diễn tập cất, hạ cánh trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo này, đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, vi phạm Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), làm gia tăng căng thẳng, gây bất ổn trong khu vực và không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông.
          Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động nêu trên, không được tiến hành quân sự hóa, nghiêm túc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, tuân thủ nghiêm túc Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, DOC, tạo bầu không khí thuận lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực”.


22/5/18

Máy bay ném bom Trung Quốc diễn tập ở Hoàng Sa: Vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam


          Việc TQ cho máy bay ném bom hoạt động diễn tập trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam – người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng

          Trả lời phóng viên hôm nay về việc Trung Quốc cho máy bay ném bom tiến hành các hoạt động diễn tập trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng khẳng định:
          Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
          Việc Trung Quốc cho máy bay ném bom tiến hành các hoạt động diễn tập cất, hạ cánh trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo này, đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, vi phạm Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), làm gia tăng căng thẳng, gây bất ổn trong khu vực và không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông.
          Người phát ngôn nêu rõ: “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động nêu trên, không được tiến hành quân sự hóa, nghiêm túc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, tuân thủ nghiêm túc Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc,  Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), tạo bầu không khí thuận lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực”.



21/5/18

Toàn văn Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp


Ngày 19-5, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (Nghị quyết số 26-NQ/TW). Trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết:



NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XII
về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
I-TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Tình hình
          Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
          Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.
          Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
          Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế để tổ chức thực hiện. Các quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ.
          Chủ trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
          Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực.
          Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện.
          Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm.
          Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
          Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh.
          Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực.
          Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.
          Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên. Một số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định.
          Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.
          Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
2. Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
          - Nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức.
          - Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung nêu trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, nghiêm túc; chậm thể chế hóa, cụ thể hóa; ít kiểm tra đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm.
          - Một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; chưa có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khỏe.
          - Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
          - Chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.
          - Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo, chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ; năng lực, phẩm chất, uy tín của một số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU
          Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; các mối đe dọa truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt. Sự bùng nổ của khoa học – công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng quốc tế hoá nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nước ta.
          Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông toàn cầu, chiến tranh mạng…
          Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau.
          Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.
1. Quan điểm
          - Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
          - Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
          - Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
          - Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
2. Mục tiêu   
2.1. Mục tiêu tổng quát: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
          - Đến năm 2020: (1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
          - Đến năm 2025:(1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.
          - Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
          + Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 – 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế (đối với quân đội, công an có quy định riêng của Bộ Chính trị).
          + Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20 – 25% dưới 40 tuổi; từ 50 – 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
          + Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 – 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 – 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 – 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác.
          + Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến đấu cao; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 – 30% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
          + Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân.
          + Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất kinh doanh hiệu quả; từ 70 – 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
          + Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 – 25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
          - Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả.
          - Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.
2. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ
          - Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.
          - Thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
          - Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
          - Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ:
          + Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực.
          + Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ.
          + Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau.
          + Thực hiện việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương theo mục tiêu đề ra; khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch Ủy ban nhân dân, nếu có điều kiện.
          + Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
          - Đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ:
          + Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào cũng phải có cấp uỷ viên.
          + Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ các cấp ở những nơi có điều kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và cam kết trách nhiệm thực hiện.
          + Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới; trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp uỷ cấp trên.
          + Cấp ủy các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu.
          + Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp ủy viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình.
          + Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ.
          + Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc “có lên, có xuống”, “có vào, có ra” trở thành bình thường trong công tác cán bộ.
          - Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác và điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, nguồn lực của đất nước. Xây dựng chính sách nhà ở theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Thực hiện nghiêm, đúng đắn, chính xác chế độ thi đua, khen thưởng.
          - Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
          - Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị và tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng những trường hợp có vấn đề về chính trị. Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
          - Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương:
          + Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng.
          + Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình.
          + Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới
          - Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ. Coi trọng trang bị kiến thức về công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
          - Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở trong nước và nước ngoài.
          - Cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
          - Xây dựng đồng bộ, toàn diện các đối tượng cán bộ ở các cấp. Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học; có chính sách ưu đãi để xây dựng, sử dụng đội ngũ các nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực. Củng cố, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính Đảng đối với cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là người đứng đầu; xây dựng quy định về tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
          - Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách liên thông, bình đẳng, nhất quán trong hệ thống chính trị; liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức nói chung, giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và tiến tới bỏ chế độ “biên chế suốt đời”.
          - Quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ. Địa phương, cơ quan, đơn vị phải thực hiện nghiêm việc quản lý cán bộ theo quy định của cấp có thẩm quyền. Cơ quan sử dụng cán bộ phải quản lý cán bộ chặt chẽ, hiệu quả. Người đứng đầu chịu trách nhiệm chính về quản lý cán bộ theo phân cấp. Bản thân cán bộ thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cam kết của mình; báo cáo, giải trình trung thực và chịu trách nhiệm khi có yêu cầu.
          - Hoàn thiện các quy định, quy chế để kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ, có sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu. Không lấy việc bố trí chức vụ, phong hàm, phong, thăng quân hàm, nâng ngạch để thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
          - Quân đội, Công an có đề án riêng để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới.
4. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ
          Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược bảo đảm các tiêu chuẩn quy định và đáp ứng yêu cầu, theo hướng:
          - Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có “sản phẩm” cụ thể, có triển vọng phát triển.
          - Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
          - Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
          - Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho các chức danh cấp chiến lược.
          - Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
          - Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội cho các nhiệm kỳ.
          - Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt. Chủ động chuẩn bị nhân sự, xây dựng “hình ảnh” các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
          - Xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với địa phương, giữa các ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
5. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền
          - Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
          - Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng.
          - Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm.
          - Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm, không có “vùng cấm”.
          - Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ.
          - Quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. Xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.
          - Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy quyền, coi đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hoá không chạy chức, chạy quyền.
6. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ
          - Thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
          - Thường trực cấp ủy các cấp ở địa phương định kỳ tiếp dân; bí thư, phó bí thư, ủy viên ban thường vụ và cấp ủy viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư; đảng viên công tác tại xã, phường, thị trấn sinh hoạt đảng tại chi bộ khu dân cư. Thực hiện việc phân công cán bộ, đảng viên phụ trách hộ gia đình nơi cư trú với các hình thức phù hợp để gắn bó mật thiết với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc tình hình cơ sở; đồng thời, qua đó để nhân dân thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống.
          - Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
          - Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một cách phù hợp.
          - Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư gửi đến cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
7. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ
          - Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp; đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ các cấp.
- Nâng cao nhận thức, chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Xây dựng mô hình tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng giảm đầu mối, tránh chồng chéo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý tổ chức, biên chế, công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đẩy mạnh cải cách hành chính; chuẩn hoá văn bản pháp quy; tin học hoá, tự động hoá trong quản lý và điều hành.
- Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác cán bộ “trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh thông” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nghiêm trị các hành vi tiêu cực trong công tác cán bộ, nhất là việc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền.
- Coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các cấp, các ngành; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình công tác cán bộ.
- Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và những chủ trương thí điểm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.
8. Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc
          - Xây dựng, hoàn thiện các văn bản liên quan đến công tác nhân sự đại hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhất là Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp và Phương hướng công tác nhân sự sát với tình hình thực tế.
          - Rà soát kỹ, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc vấn đề chính trị của cán bộ; thực hiện việc bố trí, sắp xếp, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đủ tiêu chuẩn, điều kiện trên cơ sở quy hoạch để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.
          - Tổ chức các lớp cán bộ dự nguồn trong quy hoạch ở các cấp để bổ sung, nâng cao kiến thức, hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.
          - Ban thường vụ cấp ủy từng cấp căn cứ tình hình cụ thể để sử dụng các cơ quan chuyên môn một cách phù hợp trong việc tiến hành khảo sát, đánh giá nhân sự theo phân cấp, chủ động chuẩn bị nhân sự đại hội và các công việc cần thiết khác có liên quan.
          Thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên cần tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá:
          - Hai trọng tâm là: (1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; (2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp uỷ, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
          - Năm đột phá là: (1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; (2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; (3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; (4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; (5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
          1. Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết, xác định rõ những việc cần làm ngay, những việc làm thường xuyên và những việc theo lộ trình; phân công cụ thể và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện Nghị quyết.
          2. Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dựng kế hoạch, đề án cụ thể để thực hiện Nghị quyết.
          3. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, khẩn trương thể chế hoá các nội dung Nghị quyết, nhất là những việc cần phải làm ngay; sớm sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
          4. Các ban, cơ quan đảng ở Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ triển khai nghiên cứu, xây dựng, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định, quy chế, ban hành hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện.
          5. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng Kế hoạch để triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện và thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết.

XỬ LÝ NGHIÊM HIỆN TƯỢNG " LOẠN NGÔN " TRÊN MẠNG XÃ HỘI


          Mặc dù đã có những quy định chặt chẽ để xử lý hành vi lợi dụng mạng xã hội xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của tổ chức, cá nhân, nhưng một số cá nhân do thiếu hiểu biết hoặc bị kích động vẫn cố tình “nhờn luật”.
“Nhờn luật” không chỉ vì thiếu hiểu biết
          Thời gian gần đây, theo phản ảnh của bạn đọc đến Báo Quân đội nhân dân, ông Nguyễn Văn Đực, Phó giám đốc Công ty Địa ốc Đất Lành (TP Hồ Chí Minh), Ủy viên Ban Thường vụ Hiệp hội Bất động sản TP Hồ Chí Minh thường xuyên đăng tải trên facebook cá nhân một số nội dung xúc phạm lãnh đạo cấp cao và ảnh hưởng đến đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
          Những nội dung ông này viết hết sức thô thiển, khiến người đọc bất bình, không nghĩ đây là những bài viết của một quan chức Hiệp hội Bất động sản TP Hồ Chí Minh. Sau khi nhận được thông tin bạn đọc phản ảnh, phóng viên đã liên hệ và ông Nguyễn Văn Đực thừa nhận mình là chủ nhân trang facebook có đăng tải các nội dung trên và đã gỡ bỏ một số nội dung đăng tải. Tuy nhiên, ông Đực cho biết vẫn “bảo lưu” nhiều bài viết và chưa xử lý hết những thông tin có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Nguyễn Duy Sơn bị khởi tố, bắt tạm giam vì sử dụng mạng xã hội vi phạm Điều 331 Bộ luật Hình sự. Ảnh do Công an tỉnh Thanh Hóa cung cấp.

          Trao đổi với phóng viên, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP Hồ Chí Minh cho biết: “Việc ông Đực thường xuyên đăng tải thông tin trên trang cá nhân có nội dung nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hiệp hội cũng đã nắm được. Trong hai năm (2016, 2017) hiệp hội đã có văn bản cảnh cáo, nhưng ông Đực vẫn cố tình tái phạm”.
          Chiều 8-5 vừa qua, Công an tỉnh Thanh Hóa đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và bắt tạm giam Nguyễn Duy Sơn, sinh năm 1981, ở TP Sầm Sơn, cựu cán bộ quản lý học sinh, sinh viên của Trường dự bị Đại học Sầm Sơn về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự. Theo kết quả điều tra, từ tháng 12-2017 đến tháng 3-2018, Nguyễn Duy Sơn trực tiếp tạo lập, sử dụng tài khoản facebook, vào các trang mạng xã hội khác lấy thông tin liên quan đến những vấn đề về tham nhũng và tiêu cực, sau đó xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo rồi đăng tải, chia sẻ công khai trên facebook của mình kèm theo lời bình luận, hình ảnh minh họa, dẫn chứng không có thật, không có căn cứ; mục đích là hạ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương. Kết cục với Sơn là bài học đắt giá cho những người cố tình vi phạm pháp luật khi sử dụng mạng xã hội.
          Đầu tháng 2-2018, TAND TP Hồ Chí Minh cũng đã xét xử và tuyên phạt Hồ Văn Hải (54 tuổi, bác sĩ Phòng khám đa khoa Á Châu) 4 năm tù về tội Tuyên truyền chống Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam. Cơ quan chức năng đã xác định, trong số 75 bài viết đăng tải trên mạng và tàng trữ trong máy tính của Hải, có 36 bài vi phạm Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
          Xử lý nghiêm để không nhờn luật
          Có khá nhiều trường hợp vi phạm do chủ quan, đơn giản, thiếu hiểu biết pháp luật. Tháng 11-2017, Công an TP Vũng Tàu lập hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Trọng Tuấn (26 tuổi, quê ở huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An) về hành vi xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Trước đó, Tuấn bị một phụ nữ trú tại tỉnh Bình Thuận tố cáo tài khoản facebook mang tên “Nguyễn Tuấn” đã có những bình luận xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của mình. Khi bị cơ quan công an xử phạt, chính Tuấn cũng ngỡ ngàng vì nghĩ rằng chỉ comment thì sẽ không bị cơ quan pháp luật “sờ gáy”.
          Hiến pháp 2013, tại Khoản 1, Điều 20 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Pháp luật nghiêm cấm hành vi lợi dụng việc sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Tùy theo mức độ vi phạm, tính chất của hành vi mà người vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.
        Theo thống kê của cơ quan chức năng, hiện nay việc lợi dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai sự thật, xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức có xu hướng gia tăng. Khá nhiều trường hợp người vi phạm không chỉ do thiếu hiểu biết pháp luật mà còn do chủ quan, đơn giản nghĩ rằng sẽ không bị xử lý nên “nhờn luật”. Do vậy, việc xử lý nghiêm minh như trường hợp Nguyễn Trọng Tuấn nêu trên và một số vụ việc bị khởi tố hình sự gần đây là hết sức cần thiết.