Những năm qua, nhằm thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch sử dụng mọi phương thức,
thủ đoạn hoạt động; trong đó, triệt để lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế
(HNKTQT) nhằm xâm phạm an ninh quốc gia, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội, đưa Việt
Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Họ coi đó là một trong những
nội dung quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, kết hợp với kích động các hoạt
động chống phá từ bên trong nước ta.
Nhận thức rõ trong thời đại ngày
nay, việc hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do đó Đảng, Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện nhiều giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo để ngày càng phát triển,
mở rộng các mối quan hệ quốc tế, trong đó có HNKTQT. Thực hiện chủ trương nhất
quán của Đảng, Nhà nước về HNKTQT, những năm qua, tiến trình này của Việt Nam
đã, đang đạt nhiều kết quả hết sức to lớn. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
ngoại giao với 185 nước trên thế giới và cũng là nước ASEAN duy nhất có quan hệ
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc, các thành viên nhóm G7 và 13/20 nước G20. Việt
Nam đã ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp
định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ
HNKTQT, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cùng với các
lĩnh vực khác của xã hội. Năm 2016, GDP Việt Nam đạt 203 tỷ USD, gấp 3 lần
so với năm 2006; GDP năm 2017 đạt hơn 220 tỷ USD, tăng cao nhất kể từ 2011 trở
lại đây và tăng 6,81% so với năm 2016. Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng 4 lần so với năm 2006, lên 11,8 tỷ USD. Năm 2017,
FDI vào Việt Nam đạt gần 36 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây,
tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng 10 tháng năm 2018, cả nước có 2.458 dự
án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng
ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 27,9
tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của cả nước đạt 425,12 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng tăng 73,74 tỷ USD) so với
năm 2016, là mức tăng kỷ lục trong vòng 10 năm trở lại đây. Chỉ trong 10 tháng
năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu đạt 396,85 tỷ USD, tăng 13,8%, tương ứng
tăng 48,12 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2017. Theo Báo cáo Môi trường
kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng thế giới mới công bố, dự báo Việt Nam đứng thứ
68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017.
Ảnh minh họa / TTXVN |
Thế nhưng trong sự thành công của Việt Nam về HNKTQT, các thế lực thù địch cũng
không ngừng lợi dụng lĩnh vực này để nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình” với Việt Nam. Những năm qua, các thế lực thù địch đã ráo riết triển
khai một số hoạt động cơ bản như sau:
Một là, thúc đẩy việc tái
cơ cấu nền kinh tế theo hướng ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài để từng bước
chi phối nền kinh tế Việt Nam; thông qua đó nhằm làm cho Nhà nước từng bước
mất dần khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Với phương châm: “Lấy kinh tế để chuyển hóa chính trị”, các
thế lực thù địch âm mưu từng bước xóa bỏ chế độ XHCN một cách từ từ, êm ả,
không gây ra chấn động lớn trong xã hội mà khởi nguồn là từ những sai lầm trong
HNKTQT ở Việt Nam.
Hai là, họ lợi dụng HNKTQT
và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là thông qua hợp tác với các cơ
quan của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi
kéo những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, thu thập tin tức bí mật nhà
nước để chống phá Việt Nam. Họ đặc biệt triệt để lợi dụng sự phát triển của
khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao để thu thập tin,
đánh cắp bí mật nhà nước, lấy cắp các phát minh, sáng chế của Việt Nam, gây ra
những thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.
Ba là, triệt để thông qua
các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp quốc tế hợp tác, làm ăn với Việt Nam để
đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý. Họ còn tìm cách gây ra “khủng hoảng”,
những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến phúc lợi nhân
dân và sức mạnh của Nhà nước.
Bốn là, họ tìm cách tác động
tới các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước phương Tây, đòi gắn vấn
đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện cải cách chính trị, pháp luật theo
kiểu phương Tây (như yêu cầu Nhà nước xóa bỏ một số điều về an ninh quốc gia
trong Bộ luật Hình sự hiện hành…); đòi thay Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải thúc đẩy
tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây, đòi thả các đối tượng
chống đối vi phạm pháp luật… nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính
trị, xã hội ngay từ bên trong đất nước.
Cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận
rằng, việc HNKTQT của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định,
đó là: Cơ cấu tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa thay đổi căn bản; chất lượng
tăng trưởng vẫn còn thấp và chưa thực sự ổn định, bền vững. Quá trình HNKTQT
chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể và lộ
trình hợp lý về HNKTQT; chưa có chiến lược rõ ràng khi tham gia các FTA. Việc ứng
phó với các biến động và xử lý những tác động xấu do nền kinh tế thế giới gây
ra còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ; hệ thống luật pháp Việt
Nam theo yêu cầu HNKTQT chưa hoàn thiện và đầy đủ. Ở một số địa phương,
các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến khiếu nại, tố cáo… chậm được giải quyết,
tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Sự phân tầng xã hội,
phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt. Còn tồn tại tệ nạn tham nhũng,
tiêu cực trong xây dựng, triển khai các dự án, đề án hợp tác kinh tế quốc tế…
Đó là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng hòng thúc đẩy âm mưu “diễn biến
hòa bình” đối với Việt Nam.
Nhằm tận dụng những cơ hội, thuận
lợi trong hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và phòng ngừa, đấu
tranh, ngăn chặn hành vi lợi dụng HNKTQT để chống phá Việt Nam, chúng ta cần
thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, công tác phòng, chống
hoạt động lợi dụng HNKTQT để chống phá nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ
nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác
phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính tất yếu khách quan của
việc HNKTQT; âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để “diễn biến hòa bình” đối
với nước ta của các thế lực thù địch; vị trí, vai trò công tác đấu tranh chống
hoạt động lợi dụng HNKTQT để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác
này.
Hai là, bảo đảm thực hiện
hiệu quả quá trình HNKTQT trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với
xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn định
chính trị-xã hội, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc. Xác định rõ hội nhập là
quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh; do vậy, cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để
rơi vào thế bị động, đối đầu. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu
lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với
những biến động kinh tế quốc tế, coi đây là giải pháp có tính quyết định để
nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong HNKTQT.
Ba là, thường xuyên nắm chắc
tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài hợp
tác, làm ăn với Việt Nam để chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời
âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác để xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Cần
tập trung nắm tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước
ngoài, các chương trình, dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài triển khai ở Việt
Nam… nhằm kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh chính
trị, trật tự xã hội để phòng, chống hiệu quả. Chủ động phát hiện đấu tranh,
ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp làm lộ, lọt bí mật nhà nước, cung cấp
bí mật nhà nước cho các tổ chức nước ngoài, hoặc bị kẻ địch mua chuộc, lôi kéo
nhằm phá hoại kinh tế nước ta.
Bốn là, đẩy mạnh công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm việc ở
các cơ quan, đơn vị thường xuyên tiếp xúc, trao đổi, hợp tác với các tập đoàn
kinh tế nước ngoài, bảo đảm cho đội ngũ này luôn có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực HNKTQT; có khả năng nắm bắt và tận
dụng cơ hội lớn, vượt khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ an ninh quốc
gia nước ta trong HNKTQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Năm là, khẩn trương rà
soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến HNKTQT trên cơ sở
tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế mà
Việt Nam là thành viên. Chú trọng nội luật hóa theo lộ trình phù hợp với những
cam kết quốc tế, bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó
khăn, thách thức từ việc tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong HNKTQT, bảo vệ vững
chắc an ninh quốc gia, chủ quyền của đất nước ta.
Những năm tới, các thế lực thù địch
vẫn sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng HNKTQT để phá hoại thành quả cách mạng và chống
phá chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Với những thành tựu đã
đạt được trong HNKTQT, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
đất nước ta sẽ HNKTQT thành công, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn
vinh, phát triển.
0 nhận xét: