Nhớ về những ngày tháng 4/1975, ký ức hào hùng của trận
đánh lại ùa về trong tâm trí của những cựu chiến binh giải phóng Trường Sa.
Ngày này 45 năm trước (29/4/1975), cùng với đoàn quân
thần tốc tiến về Sài Gòn, đã có một lực lượng đặc biệt được giao thực hiện một
nhiệm vụ cũng rất đặc biệt trên mặt trận Biển Đông đó là giải phóng Trường Sa.
Đây có thể nói là một quyết định táo bạo, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược
của Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đối với vấn đề chủ quyền biển đảo lúc bấy
giờ.
Sau ngày giải phóng, Đại tá Phạm Duy Tam (người cầm vô
lăng) nhiều lần cùng những người lính ở Trường Sa điều khiển tàu vào đảo Song Tử
Tây. Ảnh tư liệu.
Đã 45 năm trôi qua kể từ ngày quần đảo Trường Sa được
giải phóng, ký ức về trận đánh vẫn nguyên vẹn như mới hôm qua. Thắng lợi của
mũi tiến công thần tốc giải phóng Trường Sa không chỉ thể hiện tinh thần chiến
đấu kiên cường anh dũng, mà còn là khát vọng hòa bình của bộ đội Hải quân Việt
Nam trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Nhớ về những ngày
tháng 4/1975, ký ức hào hùng của trận đánh lại ùa về trong tâm trí của những cựu
chiến binh- những người đã cầm súng trong trận đánh giải phóng Trường Sa năm ấy.
Trung tá Đào Mạnh Hồng, nguyên là phân đội trưởng chỉ
huy đội đặc công số 1, Đội 1, Đoàn 126 Đặc công Hải Quân, hiện là Phó ban kinh
tế Hội cựu chiến binh TP Hải Phòng nhớ lại: Vào khoảng đầu tháng 4/1975, giữa
lúc ta thực hiện đợt tổng tiến công giải phóng miền Nam, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ
thị cho lực lượng Hải quân giải phóng Trường Sa, một quần đảo có ý nghĩa chiến
lược về chính trị, quân sự và kinh tế. Chỉ thị nhấn mạnh: “Trường Sa là lãnh thổ
của Tổ quốc Việt Nam. Kiên quyết không để cho lực lượng nào khác đánh chiếm đảo
trước ta…”.
Đến tận bây giờ ông vẫn không thể quên được đêm
10/4/1975, từ cảng Tiên Sa, 3 chiếc tàu giả danh tàu đánh cá nhổ neo ra khơi.
Đó là các tàu 673, 674, 675 của Đoàn vận tải 125 Hải quân, những con tàu “không
số” huyền thoại trên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Những đợt sóng lớn, vô tận,
liên tiếp như muốn vùi dập những con tàu nhỏ bé xuống biển sâu, hất lên cao, rồi
lại vùi xuống. Hầu hết anh em đều bị say sóng. Để bảo đảm bí mật, cán bộ chiến
sĩ trên tàu lúc đó phải ẩn giấu trong khoang kín, gần 300 người cùng vũ
khí ngồi san sát như những lớp cá xếp ngay ngắn dưới hầm tàu, lênh đênh trên biểnvừa
bị say sóng, vừa thiếu không khí.
Ông Đào Mạnh Hồng cho biết: “Ba ngày ba đêm lênh đênh
trên biển, các chiến sĩ hầu như là say sóng, thế nhưng với khí thế và tinh thần
của những người lính Hải quân lúc đó rất tự hào, phấn khởi và rất thiêng liêng
vì là những người đầu tiên được nhận nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Lúc đó
không ai nghĩ đến chuyện hi sinh đâu mà chỉ nghĩ đến chuyện làm sao hoàn thành
tốt nhiệm vụ của Tổ quốc giao cho mình”.
Nhớ về thời điểm lúc bấy giờ, chiến đấu viên Lê Xuân
Phát, Đoàn Đặc công 126 vẫn còn vẹn nguyên tinh thần chiến đấu khi đối mặt với
tàu chiến lớn của địch giữa đại dương mênh mông.
Ông Lê Xuân Phát kể, giải phóng đảo Song Tử Tây diễn
ra theo đúng kế hoạch. Quân ta đánh bí mật tiếp cận, nhanh chóng đổ bộ, hiệu lệnh
từ khẩu súng DKZ phát ra, các mũi tiến công ào lên dữ dội, bất ngờ đánh chiếm mục
tiêu, địch bị đánh bất ngờ, chống cự yếu ớt và đầu hàng sau 30 phút.
Rạng sáng ngày 14/4, đảo Song Tử Tây được giải phóng,
khiến quân địch trên toàn quần đảo Trường Sa hoang mang, dao động, tạo điều kiện
cho ta giải phóng các đảo còn lại thuận lợi. Tiếp đến, 3 giờ sáng ngày 25/4 ta
giải phóng hoàn toàn đảo Sơn Ca; 10 giờ 30 phút ngày 27/4, ta làm chủ đảo Nam Yết;
10 giờ 20 phút ngày 28/4, ta hoàn toàn làm chủ đảo Sinh Tồn. Đến 9 giờ sáng
29/4, phân đội chiến đấu cuối cùng của Lữ đoàn 126 đổ bộ làm chủ đảo Trường Sa.
Đã 45 năm trôi qua nhưng ông Lê Xuân Phát không sao
quên được cảm xúc khi treo lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam lên đỉnh cột cờ phía Đông đảo Song Tử Tây lúc đó. Đó là một kỷ niệm khó
quên trong đời chiến đấu của ông.
Cựu chiến binh Lê Xuân Phát kể cho con cháu về những
ngày đi GPTS và kỷ niệm khi ông còn công tác. Ảnh Cẩm Lai.
Không giấu được niềm tự hào về những ngày tham gia giải
phóng Trường Sa, Đại tá Phạm Duy Tam, Nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải
quân kể, với người lính hải quân từng 7 lần làm lễ truy điệu sống trước khi ra
khơi vận tải vũ khí vào Nam, từng đối đầu với bao phen sinh tử, thì phút giây
quần đảo Trường Sa giải phóng vỡ òa trong niềm vui. Ngày ông nhận lệnh ra giải
phóng Trường Sa, lúc đó ông là thuyền trưởng tàu không số, tàu được chỉ đạo bí
mật hành quân, nhanh chóng, bất ngờ đổ bộ giải phóng hoàn toàn các đảo do quân
đội Sài Gòn đang chốt giữ.
Đại tá Phạm Duy Tam kể: Chúng tôi ý thức nếu để mất thời
cơ, để đối phương khác lợi dụng chiếm đóng mất đảo thì chính mình sẽ có tội với
tổ tiên, cha ông và muôn đời con cháu mai sau… Ngày ấy đảo còn thấp lè tè, chiều
cao các đảo ở Trường Sa so với mặt nước biển chỉ khoảng từ 1,5m đến 4,5m. Ban
ngày phát hiện đã khó, ban đêm lại càng khó hơn vì đảo không có điện, huống hồ
lại phải phân biệt đảo do nước này hoặc đảo nước khác đang chiếm giữ trên một
vùng biển mênh mông, rộng lớn… Bên cạnh đó, trang thiết bị hàng hải dẫn đường
cho tàu ta hồi đó quá thô sơ. Trên tàu chỉ có một la bàn chỉ hướng đi. Sau ba
ngày hành quân liên tục vượt 500 hải lý mặc sóng to gió lớn, biên đội của ông
đã phát hiện được đảo Song Tử Tây và thực hiện đúng ý định mệnh lệnh trên giao.
Đó là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn nhưng thời khắc không thể chậm trễ.
Là thế hệ những người đi giải phóng Trường Sa 45 năm về
trước, Cựu chiến binh Đặng Văn Tới cho rằng: Để những chuyến đi thành công và
an toàn, chúng tôi luôn chọn thời điểm biển động, sóng to, gió lớn cấp 6 đến cấp
8 để lên đường. Ngoài đạn bom giặc thù, còn bao nhiêu hiểm nguy luôn rình rập bủa
vây. Nhưng những đoàn tàu không số vẫn nối đuôi nhau vận tải vũ khí vào Nam. Cựu
binh Đặng Văn Tới luôn mong mỏi một điều, thế hệ hôm nay và mai sau phải giữ được
những hòn đảo nơi địa đầu tổ quốc để phòng thủ đất nước từ xa, bằng bất cứ giá
nào cũng phải bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc
Lúc 9 giờ ngày 29/4/1975, Cờ giải phóng đã tung bay
trên đảo Trường Sa. Ảnh tư liệu (TTXVN).
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975, việc giải phóng quần đảo Trường Sa và các đảo trên Biển Đông có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Sau khi giải phóng 5 đảo trên quần đảo Trường Sa năm 1975, tiếp
tục thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao về củng cố, xây dựng Trường Sa, Quân chủng
Hải quân đã nhanh chóng triển khai lực lượng đóng giữ thêm 16 đảo, nâng tổng số
lên 21 đảo với 33 điểm đóng quân. 45 năm qua, quân dân Trường Sa bước vào thời
kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chiến đấu và trưởng thành bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc./.
0 nhận xét: