31/5/21

"CÓ LẼ TỪ ĐÂY EM ĐI MÃI/ KHÔNG MƠ NGÀY TRỞ LẠI HOÀN LƯƠNG"!

  Thông tin từ Bùi Thị Huệ, vợ của Lê Dũng Vova xác nhận với RFA tiếng Việt hôm 26/5/2021 thì Dũng bị Cơ quan ANĐT Công an TP Hà Nội tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Lê Văn Dũng về tội “Làm, tàng trữ, phát tán thông tin, vật phẩm, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Thời gian bị bắt khoảng 1 giờ 30 chiều ngày 25/5/2021 tại nhà riêng. 


 Có lẽ cộng đồng mạng xã hội không lạ gì 1 Lê Văn Dũng, biệt danh Dung Vova điều hành “Kênh 4” của cái gọi là “Phong trào chấn hưng nước Việt” tung lên mạng xã hội hàng nghìn video clip để thực hiện livestream cho các đối tượng phản động, bất mãn trở cờ, cơ hội chính trị vào bình luận sai lệch các vấn đề nóng hòng xuyên tạc, bôi nhọ chính quyền, lãnh đạo các địa phương, chống phá Đảng, Nhà nước, gây nhiễu xã hội, gây bất ổn an ninh chính trị...

 Dũng bị bắt là một tin mừng cho cả cộng đồng mạng xã hội yêu nước lâu nay đang bức xúc, người dân Hà Nội sẽ không phải nhìn thấy một loại rác bẩn ô nhiễm trong lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến.

 "Có lẽ từ đây em đi mãi. Không có ngày trở lại hoàn lương" đâu Dũng ơi. Chúc mừng Hà Nội sạch rác!

 PHĐ #Niemtin

Tầm vóc, ý nghĩa lịch sử sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

Tầm vóc, ý nghĩa lịch sử sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

 


Khâm phục ý chí giành độc lập tự do của các sĩ phu, với một hoài bão cứu nước cứu dân mãnh liệt, bản lĩnh và sự mẫn cảm chính trị ở tuổi 21 của một tầm nhìn xa, không cầu viện, ỷ lại, không ngồi chờ người khác đến cứu mình, cách đây 110 năm, ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

Nhận ra sự bất lực và thất bại của hệ ý thức phong kiến và hệ ý thức tư sản, quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành cho thấy một tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc xác định hướng đi, cách đi, mục đích đi và nơi đến. Anh tự quyết định con đường đi của mình, là “Tây du” mà không “Đông du”, đến tận ngọn nguồn của chủ nghĩa đế quốc Pháp, sang đất nước đang có những kẻ đến áp bức đồng bào mình, để khám phá các nền văn minh.



 
 Trạc mười ba tuổi, khi còn trên ghế trường tiểu học Pháp – bản xứ, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành biết đến ba từ đẹp đẽ: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Nhưng ngay lúc bấy giờ, Anh đã có sự hoài nghi, vì trên thực tế, không thấy tự do, bình đẳng, bác ái, mà chỉ thấy sự áp bức, bóc lột, đồng bào đau khổ, chết chóc dưới gót giày, họng súng và lưỡi lê của bọn thực dân. Sự hoài nghi ở tuổi trẻ thích tìm tòi, khám phá đã mang lại nhiều điều bổ ích. Việc “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” là nguồn động lực mạnh mẽ thôi thúc Nguyễn Tất Thành phải ra nước ngoài, xem các nước làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào.
 
 Hai sự kiện rất đáng được quan tâm ở thời khắc Nguyễn Tất Thành quyết định con đường đi của mình. Một là, tác giả Trần Dân Tiên cho biết Nguyễn Tất Thành nhận ra cách làm của Phan Châu Trinh là xin giặc rủ lòng thương; cách làm của Phan Bội Châu là “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; cách làm của Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng còn nặng cốt cách phong kiến. Trần Dân Tiên cũng cho biết cụ Phan Bội Châu muốn đưa Nguyễn Tất Thành và một số thanh niên sang Nhật, nhưng Nguyễn Tất Thành không đi. Anh thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Hai là, như Hồ Chí Minh sau này đã trả lời một nhà văn Mỹ rằng “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi lúc này thường tự hỏi nhau rằng ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật. Người khác nghĩ là Anh. Có người khác nữa nghĩ là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”.
 
 Ý thức rõ ràng, dứt khoát ngay từ đầu về mục đích ra nước ngoài của mình đã giúp Nguyễn Tất Thành có cách đi và cách làm đặc biệt. Từng là một thầy giáo, con quan Phó bảng, nhưng Anh chọn nghề lao động chân tay để kiếm sống và học tập. Chúng ta có thể hiểu được rằng đây là một lựa chọn có chủ đích để có điều kiện hòa mình vào phong trào công nhân và các dân tộc bị áp bức; để hiểu được đằng sau những chữ Pháp tự do, bình đẳng, bác ái là gì; hiểu được hai từ “văn minh” mà như nhà báo Liên Xô Ôxíp Man đenxtam thuật lại thì Nguyễn Ái Quốc đã nói đến hai từ “văn minh” một cách đầy khinh bỉ. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc có được những bài báo sắc sảo như “Tâm địa thực dân”, “Phong trào cách mạng ở Ấn Độ”, “Hành hình kiểu Linsơ”, “Công cuộc khai hóa giết người”… Sau này, khi trả lời phỏng vấn của Tạp chí Thanh niên (Ca-na-đa) về việc làm và cảm tưởng của Người thời gian ở Mỹ, Người trả lời: “Tôi làm thuê trên tàu thủy để đi xem các nước và để sang Mỹ. Tôi có làm thuê ở Niu Oóc ít lâu. Lúc đó, cảm tưởng của tôi về Mỹ đại khái như sau: Nhân dân Mỹ rất thông minh… ở Mỹ có một số người rất giàu có, họ sống cực kỳ xa hoa như những người ở phố thứ 5 (Fifth Avenue). Và có rất đông người lao động rất cực khổ, nhất là người Mỹ da đen ở khu Héclem. Điều đó làm cho tôi nghĩ rằng: Pho tượng Thần Tự Do đứng ở cảng Niu Oóc tuy bên ngoài rất đồ sộ, cao to, nhưng bên trong thì rỗng tuếch!” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.700).
 
 Nguyễn Tất Thành là số ít trong các nhà lãnh đạo cách mạng các nước thuộc địa lúc bấy giờ sớm phát hiện ra tầm vóc và ý nghĩa “vạch thời đại” của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lê-nin, Nguyễn Tất Thành thuộc dòng tinh thần của những nhân vật hiếm thấy đại diện cho tinh hoa thế giới, những con người mà ngay từ đầu đã kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính, khát vọng giải phóng đồng bào mình với đoàn kết và giải phóng các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Người với tư tưởng của Lê-nin như là một cuộc “hẹn hò lịch sử”, cuộc gặp của hai trái tim yêu nước vĩ đại muốn giải phóng đồng bào mình, lại muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động toàn thế giới. Điều đó cắt nghĩa vì sao Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin làm cho Nguyễn Ái Quốc vui mừng, cảm động đến phát khóc lên, vì đó là cái cần thiết cho chúng ta, con đường giải phóng chúng ta: Giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
 
 Cuộc hành trình mười năm “tìm đường” (1911-1920) đã giúp Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ánh sáng khoa học, chân lý cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Theo Người, chỉ có chủ nghĩa Mác – Lê-nin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Đúc kết cuộc hành trình đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lê-nin, vừa hoạt động thực tiễn, Người hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Như vậy, ngay từ năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là vũ khí không gì thay thế được giúp đồng bào ta thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc.
 
 Mười năm tiếp theo trong hành trình “mở đường” (1921-1930), Nguyễn Ái Quốc dồn trí lực đưa chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào phong trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị các yếu tố chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức để thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam. Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đó, thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
 Sự kiện Đảng ta ra đời đầu năm 1930 là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta, chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng ta ra đời cũng chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về giai cấp và đường lối lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm. Từ đây, Đảng chủ trương tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nói ngắn gọn, đó là đường lối độc lập dân tộc đi tới và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời gắn liền với tên tuổi và công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc.
 
 Từ năm 1930, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thực hiện cuộc hành trình “dẫn đường” (1930-1945). Người cùng với Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức, bóc lột của thực dân – phong kiến; đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước cùng Đảng ta tổ chức Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), quyết định “thay đổi chiến lược”. Theo sáng kiến của Người, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời, một tổ chức mặt trận có tinh thần dân tộc rất cao, có một chương trình rõ rệt, đầy đủ, thiết thực, hợp nguyện vọng các giới đồng bào, đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng và sức đoàn kết hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh, Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi. Hồ Chí Minh chỉ rõ lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
 
 Như vậy, với cuộc hành trình “tìm đường”, “mở đường”,“dẫn đường” thực hiện khát vọng giải phóng và phát triển, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo toàn dân phá tan được chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, đánh đổ ách thống trị của hai đế quốc chủ nghĩa là Pháp và Nhật. Chúng ta đã lập nên một chính thể Dân chủ Cộng hòa. Đó là một thắng lợi xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nhân dân từ thân phận nô lệ bước lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Chúng ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới.
 
 Đảng ta chỉ rõ, với những thắng lợi đã đạt được, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Sau 35 năm đổi mới, đến nay đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
 
 Đó chính là tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
 PGS, TS BÙI ĐÌNH PHONG

 

Việt Nam không chấp nhận lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị, chia rẽ dân tộc

Việt Nam không chấp nhận lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị, chia rẽ dân tộc

 


Việc lợi dụng tôn giáo phục vụ các hoạt động chính trị, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết thì không một quốc gia nào chấp nhận, chứ không chỉ ở Việt Nam.

Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ công bố mới đây đã vấp phải sự phản đối của Việt Nam bởi lẽ, bên cạnh việc đề cập đến những nỗ lực của Việt Nam trong trong việc đảm bảo và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng, báo cáo đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Một trong những điều phi lý là báo cáo tiếp tục cho rằng, “pháp luật Việt Nam kiểm soát đáng kể các hoạt động tôn giáo”. Từ đó, hối thúc Chính phủ Việt Nam “cho phép tất cả các nhóm tôn giáo hoạt động một cách tự do”.

Báo cáo viện dẫn một trường hợp cụ thể là ông Rah Lan Hip (SN 1981, trú tại, xã Ia Băng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai) bị tuyên phạt 7 năm tù vào tháng 8/2019 “chỉ vì ông này khích lệ các tín đồ đạo Tin lành Đề Ga người dân tộc thiểu số chống lại việc chính quyền gây sức ép buộc họ phải bỏ đạo”.

Sự thật hoàn toàn khác. Theo cáo trạng của TAND tỉnh Gia Lai, Rah Lan Hip được sự hậu thuẫn của các đối tượng FULRO sống lưu vong ở Mỹ đã sử dụng facebook chia sẻ nhiều bài biết về “Tin Lành Đê Ga”. Ông này cũng nhóm họp để tuyên truyền cho những người dân tộc thiểu số không được từ bỏ “Tin lành Đề Ga” bởi ở Mỹ đã có “Nhà thờ Đê Ga”, có cờ của “Nhà nước Đê Ga” và tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện cho “Nhà nước Đê Ga” sớm thành công. Rah Lan Hip được các đối tượng phản động ở Mỹ gửi tiền về để thực hiện các hành vi trên, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị ở địa phương, gây chia rẽ giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh, gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, xâm phạm trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Do dó, có đủ căn cứ để kết luận Rah Lan Hip phạm tội “Phá hoại chính sách đoàn kết”..


Tin lành Đề Ga không được công nhận ở Việt Nam. Tin lành Đề Ga được coi là công cụ để tập hợp lực lượng cho Nhà nước Đề Ga độc lập ở bên ngoài nhằm chia tách Tây Nguyên- vùng đất có vị trí chiến lược về an ninh-quốc phòng khỏi đất nước Việt Nam, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Báo cáo Tự do tôn giáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng nêu vụ việc, công an địa phương tại xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã giải tán hàng chục tín đồ tại một nhà thờ tư gia của Hội thánh Tin lành do các thành viên Hội thánh hoạt động chính trị. Báo cáo này cho biết: “Nhiều thành viên của Giáo hội đã tham dự khóa đào tạo xã hội dân sự ở Thái Lan và gặp gỡ đại diện các cơ quan Liên hợp quốc và các nhà ngoại giao nước ngoài – những người mà họ bày tỏ quan ngại về tình hình nhân quyền ở Việt Nam”.

Rõ ràng, việc lợi dụng tôn giáo cho các hoạt động chính trị, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết thì không một quốc gia nào chấp nhận, chứ không chỉ ở Việt Nam. Vì vậy, việc hối thúc chính phủ Việt Nam “cấp phép cho tất cả các nhóm tôn giáo hoạt động một cách tự do”, kể cả các nhóm tôn giáo có hoạt động chống phá là sự can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Tin lành, tôn giáo được đề cập nhiều trong báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ là một trong số các tôn giáo có tốc độ phát triển tín đồ nhanh nhất tại Việt Nam do quá trình mở cửa hội nhập và giao lưu văn hóa. Hiện tôn giáo này có hơn 1,1 triệu tín đồ, trong đó phần lớn thuộc các dân tộc thiểu số như Mông, Êđê, Jrai, K’ho, S’Tiêng… Tuy nhiên, trong số hơn 80 tổ chức Tin lành đang hoạt động, chỉ có 10 Tổ chức Tin lành có pháp nhân, 3 tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Còn lại, khoảng 70 tổ chức, nhóm Tin lành (gần 200.000 tín đồ) chưa được cấp đăng ký hoạt động. Phần lớn các tổ chức Tin lành du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam, không có cơ sở thờ tự, chức sắc chủ yếu do tự phong và khác nhau về tiêu chuẩn. Một số  tổ chức Tin lành có hệ thống giáo lý không đúng Kinh thánh, lễ nghi và tín lý trái với văn hóa truyền thống của Việt Nam, có biểu hiện mê tín dị đoan, gây chia rẽ gia đình, xã hội, xung đột với các hội thánh Tin lành truyền thông, làm phức tạp tình hình an ninh, trật tự…

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với hơn 26,5 triệu tín đồ có đạo, 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Những tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận phải hoạt động liên tục tối thiểu trong 5 năm kể từ ngày được cấp “đăng ký sinh hoạt tôn giáo”. Tổ chức tôn giáo đó phải có hiến chương và điều lệ hợp pháp, ban lãnh đạo là người Việt Nam, sinh sống tại Việt Nam, không có án tích, tự chủ trong quản lý tài sản và thực hiện các giao dịch….

Những quy định trên nhằm đảm bảo cho các tổ chức tôn giáo hoạt động một cách ổn định, đồng thời cũng ngăn chặn việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác, hoạt động mê tín dị đoan hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khác….

Ngày 13/5, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước Báo cáo Tự do tôn giáo Quốc tế của Mỹ năm 2020, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Mỹ về những vấn đề còn có sự khác biệt để tăng cường hiểu biết và đóng góp vào sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”./.

 

Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân và phủ nhận vai trò của tổ chức công đoàn hiện nay

            Với sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu trên phạm vi toàn thế giới, ngày nay, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động đã và đang xuyên tạc bản chất, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn. Phê phán, bác bỏ các luận điệu sai trái đó cùng việc bảo vệ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn trên cơ sở khoa học là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay.

Quan điểm cơ bản về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin

C.Mác, Ph. Ăng-ghen đã làm rõ địa vị kinh tế – xã hội khách quan của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, bởi đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại và hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội. Điều này không phải là mong muốn chủ quan của giai cấp công nhân hay nguyện vọng của C. Mác như một số luận điệu xuyên tạc. Sở dĩ giai cấp công nhân có được vai trò và sứ mệnh ấy là do có sự khác biệt với tất cả các giai tầng khác về địa vị trong phương thức sản xuất, về tính tổ chức, tính kỷ luật và hệ tư tưởng. Giai cấp công nhân ra đời và phát triển từ nền đại công nghiệp gắn với dây chuyền máy móc, sản xuất tập trung, theo chu trình khép kín, mang tính xã hội hóa cao. Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, tinh thần hợp tác cao, là giai cấp duy nhất thống nhất được lợi ích cũng như nhận thức, tư tưởng và hành động trong xã hội, hội đủ những phẩm chất cần có của một giai cấp cách mạng, có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen nhắc lại nội dung trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(1).

C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản(2). C. Mác, Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”(3). Như vậy, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học, là nền tảng cho sự ra đời của đảng cộng sản. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là hoàn toàn khách quan, do cơ sở kinh tế – xã hội quy định.

Quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh

Từ ngày thành lập đến nay, dù đổi tên nhiều lần, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam không hề thay đổi bản chất giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người… Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng có nghĩa là khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường của giai cấp công nhân – giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến và xu thế phát triển của thời đại. Việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn được Đảng ta khẳng định qua các kỳ đại hội, gần đây nhất là Đại hội XIII, với yêu cầu: “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”(4).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, được thể hiện qua các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người. Trong “Chương trình tóm tắt của Đảng”, Người viết: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”(5).

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, (tháng 2-1951),Chủ tịchHồ Chí Minhkhẳng định sự thống nhất quyền lợi giai cấp, nhân dân lao động và của cả dân tộc: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(6).

Khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, cách mạng nhất, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập tháng 12-1958Người viết:“Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiền tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Mà đảng vô sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Cách mạng ở Liên Xô và ở các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa đã chứng thực điều đó, không ai chối cãi được”(7).

Báo Nhân Dân ra ngày 6-1-1960 đăng tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” của Chủ tịchHồ Chí Minh, trong đó có đoạn: “Ngay từ lúc đầu, Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lúc đó, giai cấp phong kiến đã đầu hàng đế quốc, giai cấp tư sản non yếu thì chỉ mong thỏa hiệp với đế quốc để tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”(8).

Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gặp gỡ công nhân các khu công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng)_Ảnh: TTXVN

Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam đều luận chứng hết sức thuyết phục về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, điều đó đã được minh chứng trong thực tiễn hơn 91 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng lãnh đạo cách mạng, là một lực lượng xã hội to lớn, ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành, nghề, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và gắn với nền công nghiệp hiện đại. Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ có khả năng phát minh, cải tiến và áp dụng khoa học – kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.

Nhận diện một số luận điệu sai trái, phản động về bản chất giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là đúng đắn nhưng chỉ trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước) gắn với nền sản xuất dựa trên máy móc cơ khí ở thế kỷ thứ XIX; hiện nay, nhân loại đã chuyển mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kỷ nguyên của kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, dữ liệu lớn (big data)…, nên chủ nghĩa Mác – Lê-nin không còn phù hợp nữa; trong nền sản xuất hiện đại, việc đưa rô-bốt (người máy) vào sản xuất ngày càng nhiều, với dây chuyền tự động hóa, việc tuyển dụng và sử dụng người công nhân ngày càng ít đi, cho nên học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không còn phù hợp nữa; trong điều kiện hiện đại, nhà tư bản không còn bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân, mà đó là sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động; giai cấp công nhân không còn vai trò trong nền sản xuất hiện đại mà chính tầng lớp trí thức mới là người quyết định vận mệnh tương lai của nhân loại (?!)…

Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, bóp méo rằng, giai cấp công nhân chỉ là những người có học vấn hạn chế nên chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển hiện nay. Họ xảo biện rằng, nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là “Người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của xã hội phong kiến,…, nên giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (?!).

Họ ngụy biện rằng, giai cấp công nhân đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập quốc tế, thời kỳ của các cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, vai trò đó phải thuộc về đội ngũ trí thức, những nhà khoa học, nhà tư tưởng. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới có thể đưa đất nước phát triển nhanh được. Rằng, hiện nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất, nhà nước tư bản đã là “nhà nước phúc lợi chung” và theo tự nhiên, nhà nước tư bản sẽ dần “tiệm tiến” lên nhà nước xã hội chủ nghĩa, nó không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê nữa; công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột, địa vị của họ đã có sự thay đổi căn bản, cho nên không còn sứ mệnh lịch sử nữa (?!)…

Đó là một số trong vô vàn những luận điệu xuyên tạc, mị dân, phản động của “chủ nghĩa chống cộng” và các thế lực thù địch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Sự thật là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do điều kiện khách quan quy định, không phải do bất kỳ lý do nào khác. Giai cấp công nhân chính là sản phẩm của nền đại công nghiệp và không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, họ tự ý thức được vị trí, vai trò của mình trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự điều chỉnh thích nghi do sự đấu tranh quyết liệt của chủ nghĩa xã hội, của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, song bản chất bóc lột của chế độ tư bản không hề thay đổi, mà nó ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.

Mưu đồ của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội là ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản, nhằm thay thế bằng tư tưởng của giai cấp tư sản trên phạm vi toàn thế giới. Những luận điệu trên là hết sức phản động, phục vụ cho ý đồ đen tối đó và chúng cố tình không nhận ra rằng, dưới tác động của hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu thành phần và ngành, nghề, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại, vì thế, họ có nhiều cơ hội việc làm và đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được cải thiện.

Sự điều chỉnh, thích nghi đã làm cho chủ nghĩa tư bản tạm thời chiếm ưu thế; giai cấp công nhân ở các nước tư bản đã có mức sống tốt hơn do năng suất lao động ngày càng cao và bởi sự đấu tranh của tổ chức công đoàn những nơi này đã mang lại lợi ích cho người lao động. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phản ánh mức sống của họ trong điều kiện mới, hoàn toàn không phải là sự thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản và càng không làm thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản không hề giảm đi, mà ngày càng trầm trọng, gay gắt thêm. Trong xã hội tư bản, số người giàu “chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”(9). Điển hình là phong trào chiếm phố Wall ở Mỹ năm 2017; biểu tình chống phân biệt chủng tộc cuối tháng 5, đầu tháng 6-2020 ở Mỹ… Những điều đó là hệ quả của sự phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử… do sự thống trị của chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.

Về vai trò của tổ chức công đoàn, các thế lực phản động xuyên tạc trắng trợn rằng, công đoàn hiện nay không còn phát huy vai trò là tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người lao động; hoạt động của tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ mang tính hình thức, không dám đấu tranh với lãnh đạo doanh nghiệp, với ông chủ; họ cũng chỉ là người làm thuê và chịu sự quản lý của người sử dụng lao động và thậm chí, có thể bị sa thải nếu làm trái ý chủ doanh nghiệp (?!)…

Sự thật là, vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được cụ thể hóa trong Luật Công đoàn Việt Nam. Luật Công đoàn Việt Nam chỉ rõ: “Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Hoạt động của các tổ chức đảng, tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp thực sự hiệu quả; các tổ chức này luôn đóng vai trò là điểm tựa, động viên, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp, khuyến khích người lao động hăng say lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thông qua nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, tổ chức công đoàn giúp cho công nhân hiểu biết về hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong sản xuất và công tác; thi đua giỏi việc nước, đảm việc nhà, lao động sáng tạo; đồng thời, tuyên truyền trong công nhân, viên chức, người lao động về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của công nhân, viên chức, người lao động để kịp thời phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước nghiên cứu, giải quyết; đồng thời, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về lao động, về tổ chức công đoàn trong công nhân, viên chức, người lao động và người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài…

Do đó, những luận điệu xuyên tạc trên của các thế lực thù địch là hòng che đậy bản chất bóc lột của giai cấp tư sản hoặc tìm cách xóa nhòa ranh giới giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, hoàn toàn không có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Giải pháp giữ vững bản chất giai cấp công nhân và phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam hiện nay

Một là, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân.

Cần phân biệt rõ luận điệu phản động, thù địch và quan điểm chưa đúng do nhận thức còn hạn chế, do bị kích động, lôi kéo,… để có phương pháp đấu tranh, phê phán phù hợp, hiệu quả. Đối với các luận điệu phản động, thù địch, cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng bằng những luận cứ, luận chứng khoa học thuyết phục để đanh thép bác bỏ triệt để trên nhiều phương diện, cả về lý luận, thực tiễn, pháp lý, khoa học và lịch sử. Đối với những người do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ nên bị lôi kéo, xúi giục, thì cần có phương pháp giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền để giác ngộ, nâng cao nhận thức cho họ; khi giáo dục, thuyết phục không mang lại hiệu quả thì cần có biện pháp chấn chỉnh phù hợp, kịp thời, nhất là với những quan điểm, tư tưởng sai trái, đi ngược lại với đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí, nhà xuất bản nói chung và trong hệ thống công đoàn nói riêng, bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích, định hướng chính trị; bảo đảm thực sự là diễn đàn của người lao động, là công cụ hữu hiệu, là cánh tay nối dài để đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ công tác của tổ chức công đoàn đến công nhân, viên chức, người lao động và xã hội; góp phần định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận về chính trị trong công nhân, viên chức, người lao động và nhân dân. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân bảo đảm chất lượng, hiệu quả, sát đối tượng. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp trong doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm và bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp cho người lao động, đưa đường lối, chủ trương, chính sách, nhất là những tiêu chuẩn, chế độ đến người lao động; động viên, khuyến khích công nhân, người lao động tích cực, tự giác, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động gắn với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái.

Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, có những hình thức tổ chức sinh hoạt đảng phù hợp, trên cơ sở thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng và kỷ luật tự giác, nghiêm minh trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, buông lỏng kỷ luật đều trái với bản chất giai cấp công nhân. Phủ nhận nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng là phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo nghề, góp phần từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực trong xã hội nói chung, giai cấp công nhân nói riêng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển hết sức mạnh mẽ hiện nay. Làm tốt công tác định hướng, giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong đào tạo nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động, nhất là công nhân. Chú trọng phối hợp giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo và Nhà nước để bảo đảm cân đối cung và cầu về nhân lực, sát với đòi hỏi của thực tiễn.

Xây dựng, đào tạo một thế hệ công nhân thực sự giỏi về chuyên môn, vững vàng về ý thức chính trị, có phẩm chất nghề nghiệp và đạo đức trong sáng,  vươn lên làm chủ công nghệ, góp sức mình đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Nâng cao chất lượng đào tạo đối với đội ngũ công nhân đi lao động ở nước ngoài gắn với tuyên truyền, giáo dục để họ nâng cao ý thức nghề nghiệp, nỗ lực học hỏi kinh nghiệm quý báu; không tự ý ở lại, cư trú bất hợp pháp khi hết thời gian, hợp đồng lao động, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của nước sở tại và ảnh hưởng không tốt đến uy tín của đất nước, cũng như gây khó khăn cho công tác xuất khẩu lao động. Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực, góp phần đào tạo được đội ngũ công nhân theo chuẩn quốc tế.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, người lao động trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng cần tiếp tục đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Một số chính sách, pháp luật hiện hành đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình phát triển kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, cần được sửa đổi, bổ sung. Bên cạnh đó, một số địa phương mới chỉ coi trọng việc thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp, mà chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, người lao động, chưa kết hợp tốt giữa việc phát triển kinh tế với bảo đảm phúc lợi cho người lao động, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.

Bởi vậy, để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta, bên cạnh việc coi trọng phát triển kinh tế cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tạo việc làm cho công nhân; tiếp tục cải tiến chính sách tiền lương sao cho bảo đảm cuộc sống ngang bằng với mức sống trung bình trong xã hội, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho người lao động; phát huy dân chủ thực sự và nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, phát triển văn hóa nghề cho công nhân.

Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, thực hiện nghiêm việc ký các hợp đồng lao động và chú trọng thanh tra, kiểm tra điều kiện làm việc và cường độ lao động, không để xảy ra những vi phạm về pháp luật lao động. Khuyến khích, động viên và khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp làm tốt và xử lý thích đáng các doanh nghiệp cố tình không làm hoặc làm có tính chất đối phó, chiếu lệ việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân… Quan tâm, tạo điều kiện về nơi ăn, ở, nơi vui chơi, giải trí, các tiện ích văn hóa công, chế độ nghỉ dưỡng, học hành của con em người lao động, đặc biệt là các chính sách như xây dựng nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp, chính sách vay ưu đãi mua nhà ở xã hội… Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho công nhân, góp phần động viên họ phấn khởi làm việc, cống hiến, sáng tạo trong lao động, sản xuất.

Năm là, nâng cao bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển hết sức mạnh mẽ hiện nay, để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị – xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp, cần chú ý nâng cao bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chấp hành nghiêm kỷ luật đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất… Có như vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên mới giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, để cùng giai cấp công nhân đi tiên phong trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xóa bỏ áp bức bất công, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội mới: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

Những tín hiệu lạc quan về vaccine ‘made in Việt Nam

Những tín hiệu lạc quan về vaccine ‘made in Việt Nam

 


Đầu tháng 6/2021, giai đoạn 3 thử nghiệm lâm sàng vaccine Nano Covax sẽ tiếp tục được tiến hành nhằm đánh giá hiệu lực bảo vệ của vaccine đối với cộng đồng, với việc thực hiện liều tiêm 25mcg.

Nano Covax là vaccine ngừa COVID-19 đầu tiên của Việt Nam được đưa vào tiêm thử nghiệm lâm sàng trên người, do Công ty cổ phần Công nghệ sinh học Dược Nanogen nghiên cứu, chính thức triển khai từ giữa tháng 12/2020.


Sau thời gian nỗ lực triển khai, dự kiến, đầu tháng 6/2021, giai đoạn 3 thử nghiệm lâm sàng vaccine này sẽ tiếp tục được các đơn vị thử nghiệm nhằm mục tiêu đánh giá hiệu lực bảo vệ của vaccine đối với cộng đồng với việc thực hiện liều tiêm 25mcg.

Đây là một trong những tín hiệu lạc quan về một vaccine phòng ngừa COVID-19 cho người dân, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn biến phức tạp trên thế giới, khu vực và trong nước.

Sau 3 tháng thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2, đến nay, số lượng kháng thể với virus SAR-CoV-2 của tất cả tình nguyện viên đều tăng.

Các nhà khoa học nhận định, tín hiệu tích cực này là cơ sở quan trọng để các lực lượng nghiên cứu sẵn sàng triển khai, đẩy nhanh tiến độ thử nghiệm giai đoạn 3 vaccine ngừa COVID-19 “made in Việt Nam.”

Vaccine an toàn với người được tiêm

Giai đoạn 2 tiêm thử nghiệm vaccine ngừa COVID-19 Nano Covax chính thức bắt đầu vào ngày 26/2 với mục tiêu chính tiếp tục đánh giá tính an toàn, đồng thời chú trọng đến tính hiệu quả sinh miễn dịch, thực hiện trên nguyên tắc nghiên cứu đa trung tâm và số lượng mẫu lớn theo quy định.

Đợt tiêm thử nghiệm này được tổ chức tại 2 điểm cầu, triển khai 4 nhóm: 3 nhóm tiêm các mức liều khác nhau (25mcg, 50mcg, 75mcg) và 1 nhóm tiêm giả dược (placebo).

Là một trong 554 tình nguyện viên tham gia thử nghiệm lâm sàng đợt này, chị Đ.N.D. (45 tuổi, ở phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội) cho biết sau khi biết đến chương trình nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 vaccine Nano Covax vào đầu năm 2021, chị cùng gia đình quyết định đăng ký tham gia.

Trải qua vòng khám sàng lọc, chị Đ.N.D. tự nhận mình là người may mắn, cùng 2 thành viên khác trong gia đình trở thành tình nguyện viên thử nghiệm vaccine.

Chị D. cho biết sau khi tiêm, vị trí tiêm đau nhẹ, toàn thân hơi mệt nhưng không sốt. Chỉ sau 3 ngày, những triệu chứng trên đều tự hết.

Sau mũi tiêm thứ 2, mỗi tuần chị được khám sức khỏe một lần. Đến nay, sức khỏe của chị hoàn toàn bình thường.

“Tôi mong muốn đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc phòng, chống dịch bệnh của đất nước,” tình nguyện viên 45 tuổi cho biết.

Lấy mẫu xét nghiệm cho tình nguyện viên đăng ký tiêm thử nghiệm giai đoạn 2. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)

Cùng tham gia đợt tiêm thử lần này, anh N.V.N. 34 tuổi, ở quận Tây Hồ, Hà Nội cho biết trước khi tham gia tiêm thử, anh đã tìm hiểu kỹ các thông tin, đặc biệt những phản ứng phụ có thể gặp phải sau tiêm.

“Tôi rất tin tưởng vào nền y học Việt Nam, tin vào trình độ của các y bác sĩ nên không hề do dự khi đăng ký tham gia. Tôi mong muốn mình có thể cùng nhân dân cả nước đẩy lùi dịch bệnh,” anh N. nói.

Theo Phó giáo sư-Tiến sỹ Hồ Anh Sơn, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Y dược học Quân sự, Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng, đến thời điểm hiện tại, giai đoạn 2 thử nghiệm vaccine Nano Covax đã đi được gần hết chặng đường. Các tình nguyện viên tiếp tục theo dõi sức khỏe đến hết 6 tháng, tính từ thời điểm tiêm mũi đầu tiên.

Để theo dõi độ an toàn cũng như hiệu quả của vaccine, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Y dược học Quân sự cho biết trong quá trình tiêm, quy trình nghiên cứu thống nhất chung tại tất cả các điểm nghiên cứu. Theo đó, sau khi tiêm, các tình nguyện viên được theo dõi sức khỏe tại chỗ trong 1 tiếng đầu; sau đó trở về nhà, tự ghi lại thông tin vào sổ nhật ký theo dõi sức khỏe hàng ngày; mang sổ đến trong những lần khám sức khỏe theo quy định.

Những ngày đầu tiên, đội ngũ y bác sỹ liên lạc với tình nguyện viên để thăm hỏi, theo dõi sức khỏe.

Sau mũi tiêm thứ 2, các tình nguyện viên được khám sức khỏe (xét nghiệm máu, đo huyết áp…) 1 lần/tuần để đánh giá lượng kháng thể xuất hiện trong cơ thể; sau đó tiếp tục được theo dõi trong vòng 6 tháng để lấy thông tin, đánh giá sức khỏe cũng như khả năng sinh miễn dịch.

Đánh giá về hiệu quả bảo vệ cũng như độ an toàn của vaccine Nano Covax so với các loại vaccine ngừa COVID-19 đã được cấp phép hiện nay, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Hồ Anh Sơn nhận định nhiều loại vaccine ngừa COVID-19 trên thế giới có hiệu quả sinh kháng thể tốt nhất đạt khoảng trên 90%, một số loại chỉ đạt khoảng 60-70%. Đối với sản phẩm vaccine đang nghiên cứu, tất cả tình nguyện viên được tiêm vaccine đều sinh kháng thể.

“Lượng kháng thể với virus SARS-CoV-2 của các tình nguyện viên đều tăng, sức khỏe an toàn, không có trường hợp phải xử lý thuốc, cấp cứu… Đây là một tín hiệu rất mừng, là thông tin cực kỳ đáng khích lệ. Đến thời điểm này, vaccine an toàn với người được tiêm,” Phó giáo sư-Tiến sỹ Hồ Anh Sơn nhấn mạnh.

13.000 người tham gia nghiên cứu vaccine Nano Covax giai đoạn 3

Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Y dược học Quân sự Hồ Anh Sơn cho biết theo thông tin mới nhất, có thể ngay tuần sau (dự kiến vào đầu tháng 6/2021) sẽ bước vào nghiên cứu vaccine Nano Covax giai đoạn 3 với số lượng tình nguyện viên tham gia dự kiến khoảng 13.000 người.

“Ở giai đoạn 3, chúng tôi triển khai rất nhanh, thực hiện đúng quy trình, đồng thời đáp ứng nhu cầu khống chế dịch bệnh tại Việt Nam,” ông Hồ Anh Sơn cho biết.

Học viện Quân y (Bộ Quốc phòng) triển khai giai đoạn 2 tiêm thử nghiệm vaccine Nano Covax. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)

Đến nay, Học viện Quân y đã huy động khá nhiều lực lượng bác sỹ, kỹ thuật viên, học viên… tham gia vào quá trình thử nghiệm để có thể sẵn sàng triển khai cùng lúc trên 10 tỉnh/thành phố trên cả nước.

Sau khi thử nghiệm giai đoạn 1, giai đoạn 2, vaccine Nano Covax khá an toàn nên tiêu chí tuyển tình nguyện viên sẽ nới lỏng hơn 2 giai đoạn trước đó.

Tình nguyện viên tham gia giai đoạn 3 từ 18-75 tuổi, chỉ cần kiểm tra công thức máu và kiểm tra kháng thể với virus SARS-CoV-2.

“Những người đã phơi nhiễm với virus SARS-CoV-2 hoặc có sẵn kháng thể sẽ bị loại khỏi nhóm đối tượng thử nghiệm,” ông Hồ Anh Sơn cho biết.

Thông tin thêm về việc thử nghiệm giai đoạn 3, Trung tướng, Giáo sư-Tiến sỹ Đỗ Quyết, Giám đốc Học viên Quân y, Bộ Quốc phòng, tin vào sự an toàn của vaccine Nano Covax với những kết quả đã đạt được qua 2 giai đoạn thử nghiệm trước đó.

Theo Giám đốc Học viên Quân y, tính sinh miễn dịch thể hiện qua 2 yếu tố chính: Nồng độ kháng thể và tính sinh miễn dịch kháng thể.

Cụ thể, nồng độ kháng thể virus SARS-CoV-2 sau khi tiêm thử nghiệm giai đoạn 2 cho thấy hiệu giá kháng thể tăng rất cao, từ hàng chục cho đến hàng trăm lần.

Tính sinh miễn dịch kháng thể để đánh giá khả năng trung hòa virus SARS-CoV-2 sống ở ngày thứ 35 đáp ứng tốt, trên mức ngưỡng quy định.

Đối với khả năng trung hòa virus ở ngày thứ 42, hiện nhóm nghiên cứu đã đánh giá được 22/110 mẫu; dự kiến hoàn thiện vào đầu tháng 6/2021 để báo cáo Hội đồng Đạo đức Quốc gia trong nghiên cứu Y sinh học.

Giai đoạn 3 nhằm mục đích đánh giá hiệu lực bảo vệ của vaccine đối với cộng đồng, được thiết kế ở nhiều trung tâm, mở rộng sang các địa phương khác với số lượng mẫu nhiều hơn chỉ với 1 liều tiêm.

Dựa theo kết quả đánh giá, Hội đồng Đạo đức Quốc gia trong nghiên cứu Y sinh học chọn tiêm thử nghiệm liều 25mcg.

Tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc quốc tế, Hội đồng Đạo đức Quốc gia trong nghiên cứu Y sinh học cũng xác định giai đoạn 3 thử nghiệm trên 10.000 người.

Học viện Quân y tuân thủ theo đề cương phê duyệt và triển khai thực hiện tuyển tình nguyện viên tham gia.

Giai đoạn 3 được thiết kế theo phương pháp thiết kế thích ứng, tiếp tục tiêm vaccine thử nghiệm và nhóm giả dược; đánh giá sức khỏe vào thời điểm mũi đầu tiên, mũi thứ 2 (thực hiện vào ngày thứ 28), ngày thứ 35 và ngày thứ 42 sau tiêm.

“Về mặt nguyên lý, đây là những thời điểm thể hiện tính đáp ứng miễn dịch rất tốt để đánh giá tính an toàn và chỉ tiêu miễn dịch; sau đó, báo cáo với Hội đồng Đạo đức Quốc gia trong nghiên cứu Y sinh học. Trong trường hợp khẩn, Bộ Y tế có thể phê duyệt khẩn cấp,” Giáo sư-Tiến sỹ Đỗ Quyết cho biết./.

 

Những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo Việt Nam

Những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo Việt Nam

                Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.

Như VOV đã đưa tin, mới đây, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020. Trong phần báo cáo liên quan đến Việt Nam có một số nội dung đánh giá tích cực hơn năm 2019, song chủ yếu vẫn có nhiều thông tin sai lệch về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, trong đó sử dụng nhiều thông tin do “Uỷ ban cứu trợ người vượt biển” (BPSOS) cung cấp, thể hiện cách tiếp cận phiến diện, đưa nhiều thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam


Ghi nhận tiến triển tích cực về tự do tôn giáo ở Việt Nam

Trước hết, Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 đã ghi nhận một số tiến triển tích cực, nhất là việc chính quyền quan tâm hơn đến đảm bảo tự do tôn giáo  ở Việt Nam. 

Cụ thể, trong năm 2020, Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức 46 khoá đào tạo cho hơn 8.800 cán bộ Nhà nước và lãnh đạo tôn giáo, thanh tra việc thực thi Luật tín ngưỡng, tôn giáo tại các địa phương như Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng Ninh. Một số Uỷ ban của của Quốc hội cũng gặp gỡ quan chức và lãnh đạo của các nhóm tôn giáo địa phương để giám sát việc thực thi Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, một số tỉnh tại Tây Bắc, Tây Nguyên đã cấp đăng ký sinh hoạt cho hơn 2.200 chi hội và công nhận 325 chi hội Tin lành. Các nhóm tôn giáo đã đăng ký được tạo điều kiện thực hành tín ngưỡng mà ít bị chính quyền can thiệp.

Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 cũng ghi nhận một số nhà xuất bản được cấp phép để in sách tôn giáo bằng tiếng Việt, Trung, Anh và tiếng dân tộc. Chính quyền cho phép tù nhân tiếp cận tài liệu tôn giáo khi bị giam giữ nhưng có điều kiện kèm theo. Đặc biệt, trong bối cảnh Covid-19, các cấp chính quyền vẫn thể hiện sự quan tâm đối với những người theo đạo Phật và đạo Công giáo nhân dịp các ngày Lễ trọng như Lẽ Phật đản, Lễ Giáng sinh.

Tuy nhiên, trong báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế năm 2020, Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục thể hiện quan điểm thiếu khách quan về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam. 

Không có chuyện “đàn áp, sách nhiễu” các hội, nhóm tôn giáo chưa được thừa nhận

Báo cáo đã trích dẫn nhiều thông tin sai lệch của “Uỷ ban cứu trợ người vượt biển” (BPSOS) cho rằng, chính quyền một số tỉnh Tây Nguyên đã chất vấn, đe doạ các thành viên của một số nhóm Tin lành chưa đăng ký như “Hội thánh Tin lành đấng Christ”, “Hội thánh truyền giảng Phúc âm”, “Hội thánh Đề ga quốc tế”. Báo cáo xuyên tạc cơ quan chức năng Việt Nam “đàn áp, sách nhiễu” các hội, nhóm tôn giáo chưa được thừa nhận, chưa đăng ký hoạt động, cáo buộc chính quyền địa phương “duy trì quy trình đăng ký, công nhận không đúng với quy định”, cáo buộc chính quyền cấp tỉnh “gây khó khăn” với các hội, nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng các dân tộc thiểu số khi đăng ký hoạt động. 

Trên thực tế, đến tháng 12/2020, các cơ quan chức năng và địa phương ở Việt Nam đã cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho 3549 điểm nhóm Tin Lành trong cả nước, trong đó khu vực Tây Bắc là 1037 điểm nhóm, khu vực Tây Nguyên là 1391 điểm nhóm (chiếm tỷ lệ 68 %). Đối với các nhóm người theo tôn giáo chưa được công nhận về mặt tổ chức hoặc chưa được cấp đăng ký hoạt động, chính quyền địa phương vẫn bảo đảm việc sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ tại gia đình, điểm nhóm đã đăng ký với chính quyền hoặc địa điểm hợp pháp theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện nay, có hàng trăm điểm nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có cả điểm nhóm của người nước ngoài.

Mặt khác, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer tại TP. Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu đào tạo của tu sỹ Phật giáo Nam tông Khmer. Kinh sách của các tổ chức tôn giáo đã được phép xuất bản bằng 13 thứ tiếng dân tộc. Năm 2020, có 5.000 bản in Kinh thánh bằng tiếng Ê đê, 3.000 bản in Kinh Thánh tiếng Jrai. Tại khu vực các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước hiện có khoảng  583.000 tín đồ Tin lành, sinh hoạt tôn giáo tại hơn 2.000 Hội thánh, điểm nhóm. Tại khu vực miền núi phía Bắc có hơn  230.000 tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số sinh hoạt tôn giáo tại 1.640 Hội thánh, điểm nhóm.

Không chấp nhận việc lợi dụng giảng đạo để chống đối chính quyền

Báo cáo vu cáo việc chính quyền gây cản trở và sách nhiễu khi có sự phân công và chuyển giao công việc giữa các chức sắc tôn giáo ở các điểm nhóm địa phương chưa đăng ký như trường hợp linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam ở giáo phận Vinh, mục sư Nguyễn Duy Tân ở giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai.

Về nội dung này, theo tài liệu của các cơ quan chức năng, các linh mục kể trên thời gian qua có nhiều hoạt động không phải là hoạt động tôn giáo thuần túy, đã lợi dụng việc giảng đạo để chống đối chính quyền, có nhiều phát biểu đăng trên phương tiện thông tin đại chúng xuyên tạc lịch sử Việt Nam. Những hành vi này đã vi phạm Điều 5, Luật tín ngưỡng, tôn giáo, quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo. Quy định này áp dụng đối với mọi người hoạt động tôn giáo ở Việt Nam và hoàn toàn phù hợp với khoản 3 Điều 18 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Công ước này nêu rõ: Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.

“Bàn thờ tôn giáo có nhiều nhưng bàn thờ Tổ quốc có một”

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng tôn giáo với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, hơn 26,5 triệu tín đồ các tôn giáo (chiếm 27% dân số). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng khác nhau với rất nhiều lễ hội truyền thống, dân gian, tạo nên sự đa dạng trong đời sống tâm linh liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt. Tính đến ngày 31/12/2020, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, tăng 10 tôn giáo và 28 tổ chức so với trước khi thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004).

Mỗi tôn giáo ở Việt Nam tuy có lịch sử hình thành và đặc điểm khác nhau, nhưng đều tồn tại trong lòng dân tộc. Lợi ích của từng tôn giáo cũng gắn liền với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo là những chủ trương cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo.

Năm 2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước) đã có buổi gặp mặt biểu dương các chức sắc tôn giáo có đóng góp tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tại thành phố Đà Nẵng. Tại cuộc gặp mặt, các tôn giáo bày tỏ sự nhất trí đồng thuận với Đảng, Nhà nước và mong muốn được đóng góp công sức trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ. Đại diện chức sắc Hội thánh Cao Đài phát biểu “Bàn thờ tôn giáo có nhiều nhưng bàn thờ Tổ quốc có một”… khẳng định sự đoàn kết, đồng lòng của tôn giáo phản bác luận điệu xuyên tạc của thế lực xấu. Dự kiến trong năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng sẽ chủ trì buổi gặp mặt biểu dương các chức sắc tôn giáo có thành tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và tham gia phòng chống dịch bệnh Covid 19.

Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Việt Nam cũng sẵn sàng trao đổi thẳng thắn, cởi mở trên tinh thần xây dựng về những hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi và bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, Việt Nam không chấp nhận cách tiếp cận phiến diện, quy kết, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam./

 

30/5/21

Việt Nam xuất hiện biến chủng nCoV lai nguy hiểm, thế giới chưa từng ghi nhận


Bộ trưởng Y tế cho biết, Việt Nam đã xuất hiện thêm biến chủng SARS-CoV-2 mới lai tạo giữa chủng Ấn Độ và Anh.

Đây là thông tin được Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long chia sẻ tại hội nghị trực tuyến toàn quốc phòng chống dịch Covid-19 sáng 29/5.
Bộ trưởng đánh giá, làn sóng dịch thứ 4 tại Việt Nam rất phức tạp, với nhiều điểm dịch tễ khác so với các đợt dịch trước.
“Trong đợt dịch lần này xuất hiện đa hình thái lây nhiễm với nhiều ổ dịch tại các tỉnh, thành phố. Nổi trội nhất là lây nhiễm trong khu công nghiệp, ra cộng đồng, sau đó lây ngược lại khu công nghiệp”, ông Long nói.
Đặc biệt trong đợt dịch đang diễn ra có sự xuất hiện đa chủng virus. Hai chủng phổ biến nhất là Ấn Độ và chủng từ Anh, trong đó chủng Ấn Độ chiếm đa số, chủng Anh chỉ xuất hiện tại Đà Nẵng và một số địa phương khác.
“Hiện nay chúng tôi mới phát hiện ra chủng virus SARS-CoV-2 mới có sự lai tạo giữa chủng Ấn Độ và chủng Anh. Cụ thể virus chủng Ấn Độ xuất hiện đột biến của chủng Anh”, Bộ trưởng Y tế thông tin.
Bộ trưởng Y tế đánh giá, đột biến này rất nguy hiểm, tới đây Việt Nam công bố chủng này trên bản đồ gene thế giới.

Với sự xuất hiện biến chủng mới, Việt Nam đã lưu hành 8 biến chủng của nCoV, bao gồm: chủng Vũ Hán, D614G ở châu Âu, B.1.1.7 từ Anh, chủng B.1.351 ở Nam Phi, B.1617 từ Ấn Độ, B.1.619 từ châu Phi, chủng B.1.222 và biến chủng mới vừa xuất hiện chưa được đặt tên.
Thực tế, virus SARS-CoV-2 biến đổi không ngừng, hiện thế giới đã ghi nhận 28.000 đột biến, tuy nhiên chỉ có số ít biến chủng được WHO liệt vào danh sách “đáng quan ngại”, như biến chủng Anh, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil.
Trong đợt dịch lần 4, Bộ trưởng Y tế đánh giá dịch lây rất nhanh, virus phát tán rộng trong không khí, mức độ đào thải mầm bệnh rất nhanh, chỉ trong vòng 1-2 ngày đã thêm vòng lây nhiễm mới.
Nồng độ virus trong dịch hầu họng của bệnh nhân cũng tăng rất nhanh và phát tán rất mạnh ra môi trường xung quanh nên ca bệnh tăng thêm theo cấp số nhân. Vì vậy dù chúng ta rất quyết liệt nhưng vẫn khó kiểm soát.
“Lần này lây qua môi trường không khí điển hình hơn nên số ca mắc tăng rất nhanh trong thời gian rất ngắn, lây trong môi trường hẹp, thông khí kém, đông người”, Bộ trưởng phân tích.
Tại công ty Hosiden ở khu công nghiệp Quang Châu, Bắc Giang hiện đã ghi nhận tới gần 1.000 ca mắc trên tổng số hơn 4.800 công nhân. Có phân xưởng, số ca dương tính chiếm từ 55-79% trên tổng số mẫu có kết quả.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, chủng virus mới cũng làm tăng nặng bệnh nên khó kiểm soát hơn. Ngoài 12 trường hợp tử vong, cả nước đang còn 28 bệnh nhân rất nặng, vì vậy Bộ Y tế yêu cầu năng lực điều trị hồi sức tích cực của các tỉnh phải cao hơn trước đây.

  

29/5/21

Đa đảng mới có bầu cử dân chủ?

Đa đảng mới có bầu cử dân chủ?

            Trong đợt bầu cử vừa qua tại Việt Nam, một phong trào, một chiến dịch truyền thông được những kẻ tự nhận là “đấu tranh dân chủ cho Việt Nam” phát động rộng khắp trên không gian mạng là “tẩy chay bầu cử”, “không biết không bầu” nhằm lên án chế độ chính trị Việt Nam do một đảng lãnh đạo là không dân chủ, không đảm bảo tự do cạnh tranh giữa các ứng viên, các ứng cử viên đều do Đảng lựa chọn, sàng lọc đưa ra cho dân bầu… là thiếu tính dân chủ và không đảm bảo nhân quyền. Những lập luận này không hề mới. Kể từ khi hệ thống Chủ nghĩa xã hội hình thành trên thế giới, Mỹ và phương Tây đã tấn công vào hệ thống chính trị đối lập bằng phương thức này, chỉ khác nhau ở thời điểm, bối cảnh, hoàn cảnh từng nước. Dễ hiểu vì sao hiện Trung Quốc, Cuba, Việt Nam và một số quốc gia khác ghi nhận trong Hiến pháp một đảng lãnh đạo đều nằm trong mục tiêu quan tâm đặc biệt của Hoa Kỳ và phương Tây.


Nếu như còn tin tưởng vào lập luận cho rằng chỉ có đa đảng mới mang đến dân chủ và nhân quyền, hãy nhìn lại chính thể Mỹ. Ngay tại quốc gia đa đảng, mà nói chính xác hơn là lưỡng đảng này, không hề có nhân quyền. Nước Mỹ là đất nước của phân biệt chủng tộc với những phong trào kì thị người da màu, mà gần nhất là phong trào Anti-Asian.

Mỗi một đảng nắm quyền ở Mỹ đều tìm mọi cách bảo vệ lợi ích ban lãnh đạo của đảng đó cũng như lợi ích phe nhóm của mình, dân Mỹ có thực sự là mối bận tâm của những nhà cầm quyền này không? Nhìn cách Chính phủ Mỹ kiểm soát tự do ngôn luận thông qua các chính sách can thiệp vào báo chí và mạng xã hội, phổ biến ngay lần đầu người dân Mỹ bị nhiễm Covid-19. Mặc dù các ca nhiễm trầm trọng, nhưng chính quyền của tổng thống Trump vẫn che giấu sự thật, dẫn đến sự bùng phát không kiểm soát của đại dịch tại quốc gia này thì quay sang đổ lỗi cho Trung Quốc và người Châu Á mang mầm bệnh đến nước mình!

Hãy nhìn những nước Mỹ và phương Tây can thiệp về mặt chính trị để xây dựng nên chính quyền ngụy như đã từng thực hiện tại miền Nam Việt Nam, nhằm phá hoại hòa bình và chia rẽ khối đoàn kết trong nước. Như blog Võ Khánh Linh bình luận “Tại tất cả các quốc gia đã diễn ra cách mạng màu như Cách mạng Vàng Phillipines, Mùa xuân Ả Rập, Cách mạng cam tại Ukraina…, không quốc gia nào có được nền chính trị ổn định, bởi chế độ ngụy quyền do Mỹ lập nên yếu kém về thực lực, không được sự ủng hộ của người dân, liên tục gây chiến với các phe nhóm yêu nước tại những nước này, … dần dần dẫn đến tình trạng chiến tranh liên miên, kinh tế suy kiệt, quốc gia không thể phát triển”

Trước biến động chính trị-xã hội thời gian qua, nhất là ảnh hưởng dịch bệnh CoVid-19, chính giới học giả Mỹ, phương Tây đang đặt vấn đề về “nền dân chủ đang chết” để nói về những thất bại của mô hình chính trị đa đảng.

Còn muốn trải nghiệm đa đảng có đem lại bầu cử tự do, dân chủ hay không, hãy tìm hiểu cuộc các cuộc bầu cử “đa đảng” thời VNCH, từ chính quyền Ngô Đình Diệm, sự trắng trợn mua chuộc phiếu bầu, làm giả, đội phiếu…đều có cả, người dân có thể làm gì đòi “quyền lực” cho mình và đòi chính quyền phải “tôn trọng dân chủ”!

Cuối cùng, cứ nhìn vào cảnh tuyệt đại đa số dân Việt nô nức đi bầu cử, bày tỏ sự ủng hộ với vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, đặt niềm tin cao vào chính thể hiện nay, kể cả qua các cuộc điểu tra xã hội học của các tổ chức nước ngoài, đều cho thấy, điều quan trọng nhất là nhân dân hài lòng, đặt niềm tin vào bộ máy lãnh đạo, còn độc đảng hay đa đảng mà không đem lại lợi ích cho người dân, thì không có giá trị gì!

Khánh Chi

 

28/5/21

TP Hồ Chí Minh đã có 25 người nghi mắc Covid-19 liên quan đến Hội thánh truyền giáo Phục Hưng

TP Hồ Chí Minh đã có 25 người nghi mắc Covid-19 liên quan đến Hội thánh truyền giáo Phục Hưng

            Sở Y tế TP.HCM cho biết, đã ghi nhận thêm 12 trường hợp nghi mắc liên quan đến Hội thánh truyền giáo Phục Hưng có địa điểm sinh hoạt tại phường 3, quận Gò Vấp, nâng tổng số ca nghi nhiễm lên tới 25 trường hợp.

Trong 25 trường hợp này, ngoài những người sinh hoạt cùng trong hội thánh thì còn có 2 người là thành viên trong gia đình của ca nhiễm; 3 người làm cùng tòa nhà ở phường 10, quận Phú Nhuận với ca nghi nhiễm.


Trước đó, cũng trong sáng nay, Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP.HCM ghi nhận 13 trường hợp nghi nhiễm là những thành viên của Hội thánh truyền giáo Phục Hưng, trong đó có 3 trường hợp được xác định là dương tính với SARS-CoV-2. Tổng số người của hội thánh này đã tìm được và chuyển cách ly tập trung là 27 người, ở 7 quận huyện.

Cơ quan chức năng phong tỏa 3 lối vào của con hẻm trên đường Nguyễn Văn Công, rạng sáng 27/5. Ảnh: Đình Văn.
Thành phố tiến hành điều tra, truy vết các trường hợp liên quan đến các ca nghi nhiễm, phong tỏa và phong tỏa tạm thời 10 điểm địa điểm liên quan nằm trên địa bàn các quận, huyện như: Hóc Môn (6 điểm), Tân Phú (1 điểm), Gò Vấp (1 điểm), quận 12 (1 điểm), Phú Nhuận (1 điểm). Tổng số mẫu xét nghiệm được lấy trong đêm là 127 mẫu, trong đó có 70 trường hợp F1 và 57 người là F2; 279 mẫu xét nghiệm mở rộng. Trong hôm nay, ngành chức năng sẽ tiếp tục tầm soát tiếp xúc gần các F2 và xét nghiệm tầm soát rộng ở khu vực phong tỏa.

Theo đánh giá sơ bộ của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP.HCM, đây là một chuỗi lây nhiễm đang diễn tiến, phát hiện được nhờ các trường hợp có triệu chứng và đi khám tại cơ sở y tế. Mầm bệnh có thể đã lây lan trong cộng đồng nên việc tổ chức truy vết, tầm soát phải thần tốc quyết liệt, hiệu quả.

Thành phố khuyến cáo người dân cần nâng cao cảnh giác; tự giác khai báo y tế, nhất là có sinh hoạt hoặc liên quan với tổ chức hội thánh này mà chưa được chính quyền hoặc cơ quan y tế liên hệ. Các hoạt động, sinh hoạt, làm việc của người dân, cơ quan cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định hiện nay của chính quyền thành phố và địa phương nhằm góp phần kiểm soát, khống chế dịch bệnh lây lan.

 

27/5/21

HÃY Ở YÊN TRONG NHÀ VÌ BẢN THÂN VÀ CỘNG ĐỒNG..

 . 😢 Hôm nay, lần đầu tiên khi nhận nhiệm vụ đi chống dịch, tôi đã khóc... Bật khóc vì cảm nhận chân thực được sự vất vả, hi sinh nhưng không lời kêu than của 215 thầy trò và sinh viên trường Đại học Kỹ thuật y tế Hải Dương khi về tâm dịch thôn Núi Hiểu thực hiện lấy mẫu test nhanh. Các em sẽ đi lấy mẫu từng hộ gia đình của thôn Núi Hiểu và công nhân đang cách ly tại thôn, khoảng gần 8.000 mẫu. Nước mắt lặng lẽ cứ lăn dài trong lớp khẩu trang khi ngồi trên xe về UBND tỉnh để họp trực tuyến với điểm cầu Chính phủ, nước mắt cứ trào lên khi thỉnh thoảng trong ngày lại nghĩ về "khoảnh khắc" hòa vào trong hơn 200 chiến binh trẻ tuổi đó... Các em đến, làm cho không gian của nhà văn hóa thôn rộn ràng đánh tan sự im lìm trước đó. Không khí khẩn trương, hối hả, tiếng hiệu lệnh át tiếng trao đổi, tiếng trò chuyện dần tắt hẳn khi 200 con người tự đứng vào từng hàng lối. Chẳng nhìn rõ mặt ai, tất cả đều chỉ nhận nhau qua những con số được đánh sau lưng, những cái tên đơn giản viết vội. 🧑‍🔬👩‍🔬THƯƠNG vì sao sáng nay Bắc Giang lại nắng gắt thế này. Mới 7h30 sáng mà cái nắng bỏng rát da, mình mặc quần áo thôi đã đầm đìa mồ hôi, các em phải mặc đồ bảo hộ cấp 4 thì sẽ mệt mỏi thế nào đây. Sáng thì nắng gắt, chiều thì bỗng đổ cơn mưa rào xối xả. Các em đi lấy mẫu trú mưa thế nào... 🧑‍🔬👩‍🔬THƯƠNG vì đây cũng đều là những người con, người anh, người chị, người em của một ai đó, giả sử nếu đây là con em mình thì thương con chứ, lại thấy trực tiếp con đang phải vất vả đi chống dịch thì lòng cha mẹ, anh em nào lại chẳng xót. 🧑‍🔬👩‍🔬THƯƠNG nghĩ chỉ vì đại dịch này mà bản thân anh chị em mình, những cô cậu bé ở đây vẫn còn tuổi ăn, tuổi lớn đã phải xông pha trận mạc. Thông tin cá nhân của các em khi đi chống dịch chỉ được viết mã hoá bằng các con số, bằng tên ngắn,... Ôi, căm phẫn cái con virus chết tiệt này, khiến anh chị em tôi, hàng nghìn, hàng triệu con người khổ sở theo. Cả đất nước Việt Nam của mình nói chung, nhân dân Bắc Giang nói riêng đang căng mình chống dịch... Mình thực sự cảm nhận được trận chiến trên chiến trường này, tướng sĩ và quân đang từng giờ, từng ngày đồng lòng quyết tâm đập tan "kẻ thù" này! Và những thiên thần áo trắng ở đây thật sự đã trở thành những chiến binh quả cảm vì sức khỏe nhân dân mà đánh đuổi "kẻ thù". Những người anh nhễ nhại, đầm đìa mồ hôi; những người em ngồi họp nhóm phân chia, đánh dấu thông tin nhân lực, bảng biểu thống kê; người thầy chỉ huy gào khản cổ vì không kịp lấy loa để hướng dẫn các em thực hiện quy trình, thông tin báo cáo,... 22h30 mình gọi cho người thầy chỉ huy đó để trao đổi công việc, anh vẫn đang họp ở Việt Yên. Vì kế hoạch tăng tốc xét nghiệm khẩn trương, làm gọn trong ngày không để kéo sang thêm ngày nữa, mình hiểu cả đội đã làm đến 200% công suất, sẽ rất mệt nên cũng nhắn tin cho anh trao đổi nhanh. Anh chỉ nhắn vẻn vẹn được 2 dòng cho mình: - Quân của anh "gục" hết rồi! CỐ GẮNG LÊN CÁC CHIẾN BINH DŨNG CẢM ! 🦸‍♂️

Sáng rõ hơn về con đường dân tộc chúng ta đi

 

Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Những tư tưởng thể hiện trong bài viết làm sáng rõ con đường dẫn dắt dân tộc Việt Nam vào một tương lai tươi đẹp trong thế kỷ XXI.

Bàn về tương lai xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân tộc ta trong thế kỷ XXI, Tổng Bí thư phân tích đã làm rõ thêm về CNXH; vì sao từ những thập niên đầu của thế kỷ XX Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH; làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng CNXH ở Việt Nam; thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên CNXH ở nước ta thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì để tiếp tục xây dựng CNXH trong điều kiện mới?

Qua bài viết của Tổng Bí thư, chúng ta nhận thức sâu sắc hơn đối với nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XXI chỉ có thể là sự kế tục của thế kỷ XX, phải đi tiếp con đường đã đi trong thế kỷ XX, thực hiện cho kỳ được những mục tiêu đã được hoạch định từ đầu thế kỷ XX là độc lập dân tộc và CNXH. Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, con đường giải phóng dân tộc Việt Nam đã được xác định, đó là con đường của cách mạng vô sản. Chánh cương và sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Đảng ta thông qua vào đầu năm 1930 và những năm sau đó Đảng đã vạch ra con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. 

Đi theo con đường đó, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu vĩ đại: Giải phóng hoàn toàn và thống nhất đất nước, bước vào cuộc cách mạng XHCN, từng bước thực hiện chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh đập tan chủ nghĩa thực dân cũ và mới, là thế kỷ mà vấn đề độc lập dân tộc đã được giải quyết một cách cơ bản và Việt Nam trở thành biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong phong trào giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân trên toàn thế giới.

Lẽ đương nhiên trong thế kỷ XXI, con tàu cách mạng Việt Nam tiếp tục đi trên quỹ đạo đó để nhanh chóng đến đích hơn. Tuy nhiên, do những thăng trầm của cách mạng thế giới, sự công kích, chống phá thâm độc của các thế lực thù địch, đã có lúc không ít cán bộ, đảng viên dao động tư tưởng, hoài nghi về con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Nhưng ngay từ Đại hội lần thứ VII Ðảng ta đã nhận định rõ bốn nguy cơ, trong đó có nguy cơ chệch hướng CNXH. Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, đất nước đã đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đúng như Tổng Bí thư đã nói “chưa bao giờ đất nước có được cơ đồ, vị thế như ngày hôm nay”. 

Tuy nhiên, bên cạnh đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; xa rời tôn chỉ, mục đích của Ðảng; không kiên định con đường đi lên CNXH,… Đúng như Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII nhận định: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc câu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc”. 

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ nếu không giải quyết sớm để thống nhất nhận thức, ý chí và hành động, ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển nước ta trong tình hình mới.

Trước bối cảnh đó, càng thấy rõ bài viết của Tổng Bí thư có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức nỗ lực, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng. Qua đó, cảnh tỉnh, cảnh báo và răn đe những ai suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhận thức mơ hồ, sai lệch về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; đồng thời đó cũng là lời tuyên bố, luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn phê phán, đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Từ thực tế trong lòng các nước ta tư bản hiện nay, Tổng Bí thư cho rằng: Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển KH &CN. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Đồng thời, bài viết luận giải một cách sâu sắc bằng những minh chứng cụ thể, sinh động để chỉ ra các khuyết tật, mâu thuẫn cơ bản thuộc về bản chất mà họ không thể khắc phục được trong khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. 

Tổng Bí thư khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”… Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Đó chính là bản chất của chế độ xã hội, là những giá trị đích thực, là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Dân tộc ta đã giành được độc lập dân tộc trong thế kỷ XX, nhưng không có nghĩa là không còn nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc trong thế kỷ XXI. Không giữ vững được nền độc lập dân tộc thì cũng sẽ chẳng có việc xây dựng CNXH trong thế kỷ XXI. Vì vậy, trong hơn 91 năm qua Ðảng ta luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn về tương lai của CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. 

Quá trình tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Ðảng đã có nhận thức ngày càng đúng đắn hơn tương lai của dân tộc, nhưng vẫn còn đó những câu hỏi cần tiếp tục nghiên cứu. Lần này, những câu hỏi lớn ấy đã được Tổng Bí thư lý giải sâu sắc hơn, bổ sung, phát triển và hoàn thiện thêm trong bài viết, góp phần củng cố vững chắc niềm tin trong nhân dân ở giai đoạn phát triển mới của đất nước. Bài viết thuyết phục người đọc từ cách nêu vấn đề đến quá trình luận giải, chứng minh, làm rõ từng nội dung bằng tình cảm, tâm huyết, trách nhiệm và trí tuệ của một nhà khoa học lớn, của một lãnh tụ xuất sắc của Đảng. Ðó cũng là tư tưởng, quan điểm lớn của Ðảng ta về ý chí, khát vọng xây dựng, phát triển CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong thế kỷ XXI.

Tổng Bí thư dành nhiều tâm trí vào việc luận giải về ý chí, về khát vọng vì sao gần 100 triệu người Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH, trên cơ sở đó trình bày những tư tưởng, quan điểm và giải pháp cụ thể cần nắm chắc trong quá trình tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu xây dựng, phát triển CNXH ở nước ta trong thế kỷ XXI. Luận điểm cốt lõi này đã được Tổng Bí thư đề cập nhiều lần, được khẳng định trong các phát biểu chỉ đạo Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và các diễn đàn quan trọng khác; quá độ đi lên CNXH là một quá trình cách mạng lâu dài, trong đó rất phức tạp và có nhiều thách thức vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên khắp các lĩnh vực của xã hội. Do đó, xây dựng CNXH ở nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức đan xen với sự mâu thuẫn, đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu. Có thể khẳng định, đây là cuộc đấu tranh rất cam go, gian khổ, đòi hỏi phải có ý chí, khát vọng với một tư duy mới, bản lĩnh và sáng tạo. 

Trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Ðảng, nhưng không giáo điều, máy móc; không ngừng đổi mới, sáng tạo, phát triển, nhưng đổi mới phải trên cơ sở kiên định, không vô nguyên tắc dẫn đến chệch hướng XHCN. Không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, không chấp nhận thể chế chính trị “tam quyền phân lập” và những khuyết tật, bất công luôn tồn tại trong chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên trân trọng, kế thừa có chọn lọc những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường, nhưng đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì sự phát triển bền vững của xã hội, của con người với đặc trưng và thuộc tính rất quan trọng là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, lấy sức khỏe, hạnh phúc, giá trị, phẩm giá của con người làm vị trí trung tâm trong quá trình xây dựng, phát triển CNXH ở nước ta. Thực tiễn những năm qua cho thấy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Tổng Bí thư khẳng định rõ những thành tựu, ưu việt đó và đã chỉ ra nhiều khuyết điểm, hạn chế, thách thức mà chúng ta đang đối mặt, phải giải quyết.

Qua bài viết của Tổng Bí thư, chúng ta nhận thức sâu sắc về CNXH và con đường đi lên CNXH mà nhân dân ta đi tới. Những gợi mở, chỉ dẫn, tư tưởng trong bài viết là nguồn cảm hứng, tạo sự thống nhất, đoàn kết, khơi dậy ý chí tự cường, khát vọng vươn lên, xây dựng vào phát triển đất nước theo con đường CNXH ngày càng đàng hoàng, to đẹp hơn như mong muốn của Bác Hồ kính yêu!

 

Phải nhận định khách quan để quyết tâm cao hơn nữa trong việc dập dịch

Phải nhận định khách quan để quyết tâm cao hơn nữa trong việc dập dịch

               Chiều 24-5, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng, chống dịch Covid-19. Cùng dự có các Phó Thủ tướng Chính phủ: Trương Hòa Bình, Phạm Bình Minh, Lê Minh Khái, Vũ Đức Đam và Lê Văn Thành.

Theo Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long, đợt dịch lần thứ 4 có diễn biến phức tạp hơn và khả năng sẽ kéo dài hơn các đợt dịch trước, xảy ra tại nhiều địa phương với nhiều nguồn lây, nhiều ổ dịch trong cùng thời điểm, cùng sự xuất hiện của nhiều biến chủng mới với khả năng lây nhanh hơn, rộng hơn, mạnh hơn. Mặc dù vậy, đợt dịch thứ 4 này vẫn đang được kiểm soát do hầu hết các trường hợp mắc mới đã xác định được nguồn lây và là các trường hợp đã được cách ly từ trước hoặc được phát hiện trong khu vực phong tỏa. Dịch cơ bản đã được kiểm soát tại hầu hết các địa phương như Yên Bái, Đồng Nai, Quảng Ngãi, Nghệ An, Quảng Ninh, Quảng Nam, Hải Phòng, Quảng Trị, Đắc Lắc, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Ninh Bình, Tuyên Quang, Sơn La… Có sáu địa phương đã qua 14 ngày không ghi nhận ca mắc mới.


Tại hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, dịch bệnh diễn biến phức tạp, dịch bùng phát với số ca mắc cao, xảy ra tại khu công nghiệp và lây lan ra cộng đồng. Hai địa phương đã quyết liệt, mạnh mẽ triển khai phong tỏa, cách ly triệt để các khu vực có trường hợp mắc bệnh, thực hiện giãn cách xã hội tại một số địa bàn và tạm dừng hoạt động của một số khu công nghiệp (tại Bắc Giang), một số công ty (tại Bắc Ninh) để nhanh chóng ngăn chặn sự lây lan của dịch. Các trường hợp mắc mới sẽ tiếp tục được ghi nhận do nguồn lây tồn tại trong thời gian dài, phạm vi rộng, nhưng cơ bản tình hình dịch bệnh tại hai địa phương đang từng bước được kiểm soát. Các trường hợp hầu hết đã được cách ly từ trước hoặc được phát hiện trong khu vực phong tỏa. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng có thể xuất hiện một số ca bệnh trong cộng đồng thời gian tới.

Phát biểu ý kiến kết luận cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, đợt bùng phát dịch thứ 4 do biến chủng của virus lây lan nhanh, khó kiểm soát, diễn ra trên diện rộng, nhất là ở khu công nghiệp. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo quốc gia và Bộ Y tế, chúng ta quyết tâm đẩy lùi đợt dịch này, kiên trì thực hiện mục tiêu kép, phát triển kinh tế – xã hội để có cơ sở vật chất, tiềm lực cho việc bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội và mọi mặt hoạt động khác của đất nước.

Trong tuần qua, chúng ta tập trung bảo vệ và tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp trong điều kiện dịch bệnh vẫn còn phức tạp, trong đó có một số tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang. Thủ tướng yêu cầu cần tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác này.

Thủ tướng biểu dương một số bộ, ngành, địa phương làm tốt công tác phòng chống dịch, góp phần phát triển kinh tế – xã hội và bầu cử thành công. Bộ Y tế rất tích cực, đội ngũ cán bộ, bác sĩ, người lao động trong ngành đã không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh để bảo vệ sức khỏe nhân dân. Các lực lượng quân đội, công an sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ được giao và chi viện, hợp tác với các cơ quan, địa phương. Bộ Tài chính đã có ngay văn bản hướng dẫn mới về cơ chế tài chính mua sắm trang thiết bị, vật tư phục vụ phòng chống dịch. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Ngoại giao thực hiện tốt, tích cực, hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Các tỉnh có dịch đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao, “ngày đêm sớm tối lo toan”, cho thấy việc phân cấp đang có hiệu quả và đúng hướng.

Thủ tướng biểu dương sáu địa phương đã qua 14 ngày không phát hiện ca nhiễm mới, kiềm chế và đẩy lùi dịch bệnh, cùng với Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và đông đảo người dân đã đồng hành cùng Chính phủ trong triển khai các giải pháp thực hiện mục tiêu kép.

Thủ tướng chỉ ra một số hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu, khắc phục như còn lúng túng, bị động trong phòng chống dịch tại các khu công nghiệp. Phương châm 4 tại chỗ được chỉ đạo quyết liệt nhưng trong tổ chức thực hiện vẫn bộc lộ bất cập. Quản lý cách ly và sau cách ly vẫn còn có sơ hở, thiếu chặt chẽ. Một số văn bản hướng dẫn, nhất là hướng dẫn tổ chức thực hiện, chưa theo kịp, chưa phù hợp với thực tiễn; trong tình hình đặc biệt đòi hỏi phải có biện pháp, cách làm đặc biệt, giảm thủ tục hành chính. Bên cạnh những địa phương rất sáng tạo, chủ động, linh hoạt, có biện pháp phù hợp với tình hình thì một số địa phương còn lúng túng, bị động.

Tình hình dịch bệnh sắp tới được dự báo tiếp tục phức tạp, khó lường, có thể ảnh hưởng tới nhiều hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, nhất là hoạt động của các khu công nghiệp và một số trung tâm kinh tế lớn. Phải nhận định khách quan để quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động quyết liệt hơn, thích ứng với tình hình mới, diễn biến mới bằng các giải pháp phù hợp, hiệu quả, đây cũng là chủ động tấn công trong phòng chống dịch và phát triển kinh tế – xã hội.

Tại cuộc họp, Thủ tướng nhấn mạnh một số nhiệm vụ cần tập trung thực hiện trong tình hình mới.

Thứ nhất, các Bộ: Y tế, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Lao động – Thương binh và Xã hội, Công thương, Công an, Quốc phòng, Ngoại giao gấp rút sơ kết công việc vừa qua, tập trung hoàn thiện, bổ sung thể chế, cơ chế, chính sách, hướng dẫn kịp thời, phù hợp, vừa thực hiện mục tiêu chống dịch vừa phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ sức khỏe nhân dân và cộng đồng, theo tinh thần vừa phải phân cấp, vừa phải cụ thể hóa trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là cá thể hóa trách nhiệm cá nhân.

Thứ hai, triển khai mạnh mẽ, quyết liệt, hiệu quả chiến lược vaccine. Chính phủ tập trung chỉ đạo, các bộ, cơ quan, ban, ngành, địa phương phải tập trung thực hiện bằng được chiến lược vaccine. “Quyết liệt hơn nữa, thần tốc hơn nữa, nỗ lực lớn hơn nữa, quyết tâm cao hơn nữa, hiệu quả hơn nữa trong công tác này”, Thủ tướng yêu cầu.

Thủ tướng lưu ý, trong nghiên cứu, sản xuất vaccine, các nhà khoa học, Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phải vào cuộc; Bộ Tài chính thiết kế cơ chế, chính sách để khuyến khích nghiên cứu, sản xuất vaccine. Có kế hoạch tiêm vaccine phù hợp, ưu tiên cho các đối tượng tuyến đầu chống dịch và công nhân các khu công nghiệp.

Thủ tướng yêu cầu các bộ, cơ quan liên quan ngay lập tức đề xuất cơ chế đóng góp và sử dụng Quỹ vaccine bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, huy động mọi nguồn lực và đóng góp của toàn dân, doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Triệt để tiết kiệm chi tiêu thường xuyên để bảo đảm ngân sách tối đa cho việc mua vaccine, vừa bảo đảm các hoạt động bình thường, vừa phuc vụ các nhiệm vụ đặc biệt, đột xuất. “Các bộ, ngành trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng, Ban Chỉ đạo quốc gia phải thực hiện thần tốc và hiệu quả chiến lược vacicne, đây là điểm rất quan trọng”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thứ ba, phải kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh ở các khu công nghiệp. Thủ tướng biểu dương tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 và đặc biệt là của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng Ban chỉ đạo. Thủ tướng đánh giá, phải tiếp tục rà soát lại các quy định, quy trình, quy chế về khai báo y tế, phòng chống dịch, cách ly và tổ chức sản xuất trong khu công nghiệp. Bộ Công thương, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và các bộ liên quan, các địa phương nhanh chóng xây dựng, vừa làm vừa hoàn thiện dần các quy định để có chiến lược hoàn chỉnh về phòng chống dịch trong khu công nghiệp, không làm đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất kinh doanh.

Thứ tư, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, các cơ quan liên quan hoàn thiện các quy định về vận chuyển hàng hóa, vật tư, dịch vụ… tại các địa phương có dịch. “Vải thiều Bắc Giang đã vào mùa, có giá trị rất lớn, tôi đã chỉ đạo Bộ trưởng Công thương trực tiếp lên Bắc Giang bàn bạc với địa phương để có giải pháp cụ thể. Chúng ta phải thích ứng với tình hình, không có cách nào khác”, Thủ tướng nêu rõ.

Thứ năm, Thủ tướng nhắc lại yêu cầu vận dụng các quy định đặc biệt để khen thưởng và kỷ luật kịp thời, đúng người, đúng việc. Thủ tướng giao Bộ Nội vụ chủ trì xử lý vấn đề này, trước mắt giao Ban Chỉ đạo quốc gia xem xét, đề xuất các nội dung khen thưởng, kỷ luật, nếu thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng sẽ quyết định ngay, nếu thuộc thẩm quyền của cấp cao hơn thì tham mưu theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước.

Thứ sáu, quản lý chặt chẽ việc nhập cảnh, đặc biệt là kiểm soát nhập cảnh trái phép và cư trú bất hợp pháp, đây là nhiệm vụ thường xuyên của lực lượng công an, quân đội, phải thực hiện tích cực hơn.

Thứ bảy, truyền thông phải kịp thời, chính xác, hiệu quả, tăng cường phân tích, so sánh, đánh giá, khích lệ, truyền cảm hứng để nhân dân biết, hiểu rõ về tình hình, diễn biến dịch bệnh, chia sẻ, cộng tác, vào cuộc, đóng góp với các cơ quan, chính quyền các cấp theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Các cơ quan trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao phải tham gia công tác truyền thông, đây cũng là một phương thức lãnh đạo của Đảng.

Thứ tám, Thủ tướng Chính phủ sẽ có thư động viên các lực lượng trên tuyến đầu chống dịch, trong đó có ngành y tế.

Thứ chín, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, căn cứ tình hình thực tiễn, các bộ, ngành, địa phương quyết định các biện pháp phù hợp thuộc thẩm quyền theo tinh thần hiệu quả, năng động, sáng tạo, quyết tâm, nỗ lực, quyết liệt hơn nữa trong thực hiện mục tiêu kép. Ban Chỉ đạo quốc gia theo dõi, đôn đốc, phê bình, khen thưởng kịp thời.