Với sứ mệnh lịch
sử là xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu trên phạm vi
toàn thế giới, ngày nay, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn càng có vai
trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch,
phản động đã và đang xuyên tạc bản chất, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn. Phê phán, bác bỏ các luận điệu sai
trái đó cùng việc bảo vệ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của
tổ chức công đoàn trên cơ sở khoa học là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay.
Quan điểm cơ
bản về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn
Quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin
C.Mác, Ph.
Ăng-ghen đã làm rõ địa vị kinh tế – xã hội khách quan của giai cấp công nhân là
xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, bởi đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản
xuất tiên tiến, hiện đại và hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội.
Điều này không phải là mong muốn chủ quan của giai cấp công nhân hay nguyện vọng
của C. Mác như một số luận điệu xuyên tạc. Sở dĩ giai cấp công nhân có được vai
trò và sứ mệnh ấy là do có sự khác biệt với tất cả các giai tầng khác về địa vị
trong phương thức sản xuất, về tính tổ chức, tính kỷ luật và hệ tư tưởng. Giai
cấp công nhân ra đời và phát triển từ nền đại công nghiệp gắn với dây chuyền
máy móc, sản xuất tập trung, theo chu trình khép kín, mang tính xã hội hóa cao.
Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ,
tinh thần hợp tác cao, là giai cấp duy nhất thống nhất được lợi ích cũng như nhận
thức, tư tưởng và hành động trong xã hội, hội đủ những phẩm chất cần có của một
giai cấp cách mạng, có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, trong tác phẩm “Phê phán Cương
lĩnh Gô-ta”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen nhắc lại nội dung trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” là: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất
cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”(1).
C. Mác và Ph.
Ăng-ghen khẳng định: “Vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong
kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp
tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người
sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người
vô sản”(2). C. Mác, Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân
tộc”(3). Như vậy, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp
hiện đại, dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học, là nền tảng cho sự ra đời
của đảng cộng sản. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là hoàn
toàn khách quan, do cơ sở kinh tế – xã hội quy định.
Quan điểm của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập
đến nay, dù đổi tên nhiều lần, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam không hề thay đổi bản
chất giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người… Khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của Đảng có nghĩa là khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường
của giai cấp công nhân – giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến
và xu thế phát triển của thời đại. Việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
Đảng luôn được Đảng ta khẳng định qua các kỳ đại hội, gần đây nhất là Đại hội
XIII, với yêu cầu: “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định
các nguyên tắc xây dựng Đảng”(4).
Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, được thể hiện qua các tác phẩm,
bài viết, bài nói của Người. Trong “Chương trình tóm tắt của Đảng”, Người
viết: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp
công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”(5).
Trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, (tháng
2-1951),Chủ tịchHồ Chí Minhkhẳng định sự thống nhất quyền lợi giai cấp, nhân
dân lao động và của cả dân tộc: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng
của dân tộc Việt Nam”(6).
Khẳng định giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, cách mạng nhất, trong tác phẩm “Đạo
đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập tháng 12-1958, Người
viết:“Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiền tiến nhất, giác ngộ nhất,
kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Mà đảng vô sản là bộ
tham mưu của giai cấp công nhân. Cách mạng ở Liên Xô và ở các nước khác trong
phe xã hội chủ nghĩa đã chứng thực điều đó, không ai chối cãi được”(7).
Báo Nhân
Dân ra ngày 6-1-1960 đăng tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của
Đảng” của Chủ tịchHồ Chí Minh, trong đó có đoạn: “Ngay từ lúc đầu, Đảng
đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, lãnh đạo phong trào giải phóng
dân tộc. Trong lúc đó, giai cấp phong kiến đã đầu hàng đế quốc,
giai cấp tư sản non yếu thì chỉ mong thỏa hiệp với đế quốc để
tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi,
nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là
dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực
dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc
tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin
cậy nhất của nhân dân Việt Nam”(8).
Giai cấp công
nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt
trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn
Xuân Phúc gặp gỡ công nhân các khu công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng)_Ảnh:
TTXVN
Như vậy, chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam đều luận chứng hết sức thuyết phục về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, điều đó đã được minh chứng trong thực tiễn hơn 91 năm lãnh đạo cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực
lượng lãnh đạo cách mạng, là một lực lượng xã hội to lớn, ngày càng đa dạng về
cơ cấu ngành, nghề, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và gắn với
nền công nghiệp hiện đại. Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức
sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ có
khả năng phát minh, cải tiến và áp dụng khoa học – kỹ thuật hiện đại vào quá
trình sản xuất, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Nhận diện một
số luận điệu sai trái, phản động về bản chất giai cấp công nhân và vai trò của
tổ chức Công đoàn Việt Nam
Các thế lực thù
địch, phản động xuyên tạc rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là đúng đắn nhưng chỉ
trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước) gắn với nền
sản xuất dựa trên máy móc cơ khí ở thế kỷ thứ XIX; hiện nay, nhân loại đã chuyển
mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kỷ nguyên của kinh tế tri thức,
kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, dữ liệu lớn (big data)…, nên chủ nghĩa
Mác – Lê-nin không còn phù hợp nữa; trong nền sản xuất hiện đại, việc đưa rô-bốt
(người máy) vào sản xuất ngày càng nhiều, với dây chuyền tự động hóa, việc tuyển
dụng và sử dụng người công nhân ngày càng ít đi, cho nên học thuyết về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân không còn phù hợp nữa; trong điều kiện hiện đại,
nhà tư bản không còn bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân, mà đó là sự
thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động; giai cấp công nhân
không còn vai trò trong nền sản xuất hiện đại mà chính tầng lớp trí thức mới là
người quyết định vận mệnh tương lai của nhân loại (?!)…
Các thế lực thù
địch ra sức xuyên tạc, bóp méo rằng, giai cấp công nhân chỉ là những người có học
vấn hạn chế nên chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể xây dựng được một xã
hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển hiện nay. Họ xảo biện
rằng, nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là “Người đào huyệt chôn chủ
nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển
có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện vai trò, sứ
mệnh lịch sử của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp
công nhân được, vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh
hưởng nặng nề của xã hội phong kiến,…, nên giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng
Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam (?!).
Họ ngụy biện rằng,
giai cấp công nhân đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thời kỳ cách mạng giải
phóng dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập quốc tế, thời kỳ của
các cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, vai trò đó phải thuộc về đội ngũ trí
thức, những nhà khoa học, nhà tư tưởng. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới
có thể đưa đất nước phát triển nhanh được. Rằng, hiện nay chủ nghĩa tư bản đã
thay đổi về chất, nhà nước tư bản đã là “nhà nước phúc lợi chung” và theo tự
nhiên, nhà nước tư bản sẽ dần “tiệm tiến” lên nhà nước xã hội chủ nghĩa, nó
không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê nữa; công nhân ở các nước tư bản
không còn bị bóc lột, địa vị của họ đã có sự thay đổi căn bản, cho nên không còn
sứ mệnh lịch sử nữa (?!)…
Đó là một số
trong vô vàn những luận điệu xuyên tạc, mị dân, phản động của “chủ nghĩa chống
cộng” và các thế lực thù địch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Sự thật là,
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do điều kiện khách quan quy định, không
phải do bất kỳ lý do nào khác. Giai cấp công nhân chính là sản phẩm của nền đại
công nghiệp và không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, họ tự ý thức
được vị trí, vai trò của mình trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội
loài người. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự điều chỉnh thích nghi do sự
đấu tranh quyết liệt của chủ nghĩa xã hội, của giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động, song bản chất bóc lột của chế độ tư bản không hề thay đổi,
mà nó ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Mưu đồ của các
thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội là ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng
của các đảng cộng sản, nhằm thay thế bằng tư tưởng của giai cấp tư sản trên phạm
vi toàn thế giới. Những luận điệu trên là hết sức phản động, phục vụ cho ý đồ
đen tối đó và chúng cố tình không nhận ra rằng, dưới tác động của hội nhập quốc
tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất
lượng, đa dạng về cơ cấu thành phần và ngành, nghề, đời sống vật chất và tinh
thần ngày càng được cải thiện. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng được nâng
cao về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, hình thành tác phong và kỷ luật lao động
theo hướng hiện đại, vì thế, họ có nhiều cơ hội việc làm và đời sống vật chất,
tinh thần ngày càng được cải thiện.
Sự điều chỉnh,
thích nghi đã làm cho chủ nghĩa tư bản tạm thời chiếm ưu thế; giai cấp công
nhân ở các nước tư bản đã có mức sống tốt hơn do năng suất lao động ngày càng
cao và bởi sự đấu tranh của tổ chức công đoàn những nơi này đã mang lại lợi ích
cho người lao động. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phản ánh mức sống của họ trong điều
kiện mới, hoàn toàn không phải là sự thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản và
càng không làm thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Những mâu thuẫn
trong lòng xã hội tư bản không hề giảm đi, mà ngày càng trầm trọng, gay gắt
thêm. Trong xã hội tư bản, số người giàu “chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ
phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức
và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”(9).
Điển hình là phong trào chiếm phố Wall ở Mỹ năm 2017; biểu tình chống phân biệt
chủng tộc cuối tháng 5, đầu tháng 6-2020 ở Mỹ… Những điều đó là hệ quả của sự
phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử… do sự thống trị của chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa.
Về vai trò của
tổ chức công đoàn, các thế lực phản động xuyên tạc trắng trợn rằng, công đoàn
hiện nay không còn phát huy vai trò là tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người lao động;
hoạt động của tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chỉ mang tính hình thức, không dám đấu tranh với lãnh đạo
doanh nghiệp, với ông chủ; họ cũng chỉ là người làm thuê và chịu sự quản lý của
người sử dụng lao động và thậm chí, có thể bị sa thải nếu làm trái ý chủ doanh
nghiệp (?!)…
Sự thật là,
vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được cụ thể hóa trong Luật Công đoàn
Việt Nam. Luật Công đoàn Việt Nam chỉ rõ: “Công đoàn là tổ chức chính
trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức,
viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người
lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…; tham gia quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận
động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành
pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Hoạt động của
các tổ chức đảng, tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp thực sự hiệu quả; các tổ
chức này luôn đóng vai trò là điểm tựa, động viên, bảo vệ quyền lợi chính đáng,
hợp pháp, khuyến khích người lao động hăng say lao động, phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thông qua nhiều hoạt động đa dạng, phong
phú, tổ chức công đoàn giúp cho công nhân hiểu biết về hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp; nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; nêu
cao tinh thần trách nhiệm trong sản xuất và công tác; thi đua giỏi việc nước, đảm
việc nhà, lao động sáng tạo; đồng thời, tuyên truyền trong công nhân, viên chức,
người lao động về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của công nhân, viên chức,
người lao động để kịp thời phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước nghiên cứu,
giải quyết; đồng thời, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về lao động,
về tổ chức công đoàn trong công nhân, viên chức, người lao động và người sử dụng
lao động thuộc các thành phần kinh tế, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước
và có vốn đầu tư nước ngoài…
Do đó, những luận
điệu xuyên tạc trên của các thế lực thù địch là hòng che đậy bản chất bóc lột của
giai cấp tư sản hoặc tìm cách xóa nhòa ranh giới giữa giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, hoàn toàn không có cơ sở khoa học
và thực tiễn.
Giải pháp giữ
vững bản chất giai cấp công nhân và phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn Việt
Nam hiện nay
Một là,
đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho
giai cấp công nhân.
Cần phân biệt
rõ luận điệu phản động, thù địch và quan điểm chưa đúng do nhận thức còn hạn chế,
do bị kích động, lôi kéo,… để có phương pháp đấu tranh, phê phán phù hợp, hiệu
quả. Đối với các luận điệu phản động, thù địch, cần phải kiên quyết, kiên trì đấu
tranh không khoan nhượng bằng những luận cứ, luận chứng khoa học thuyết phục để
đanh thép bác bỏ triệt để trên nhiều phương diện, cả về lý luận, thực tiễn,
pháp lý, khoa học và lịch sử. Đối với những người do nhận thức chưa đúng, chưa
đầy đủ nên bị lôi kéo, xúi giục, thì cần có phương pháp giáo dục, thuyết phục,
tuyên truyền để giác ngộ, nâng cao nhận thức cho họ; khi giáo dục, thuyết phục
không mang lại hiệu quả thì cần có biện pháp chấn chỉnh phù hợp, kịp thời, nhất
là với những quan điểm, tư tưởng sai trái, đi ngược lại với đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan báo chí, nhà xuất bản nói chung và trong hệ thống
công đoàn nói riêng, bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích, định hướng chính trị; bảo
đảm thực sự là diễn đàn của người lao động, là công cụ hữu hiệu, là cánh tay nối
dài để đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ công tác của tổ chức công đoàn đến công nhân, viên chức, người lao động
và xã hội; góp phần định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận về chính trị
trong công nhân, viên chức, người lao động và nhân dân. Tiếp tục đổi mới nội
dung, hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân bảo đảm chất
lượng, hiệu quả, sát đối tượng. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp trong doanh nghiệp. Nâng cao
hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm và bảo vệ lợi ích
chính đáng, hợp pháp cho người lao động, đưa đường lối, chủ trương, chính sách,
nhất là những tiêu chuẩn, chế độ đến người lao động; động viên, khuyến khích
công nhân, người lao động tích cực, tự giác, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật nhằm nâng cao năng suất lao động gắn với phát triển bền vững và bảo vệ
môi trường sinh thái.
Đổi mới tổ chức
và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp, nhất là
trong các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, có những hình thức tổ chức sinh hoạt
đảng phù hợp, trên cơ sở thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, tự phê bình
và phê bình, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng và kỷ luật tự giác, nghiêm
minh trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái,
buông lỏng kỷ luật đều trái với bản chất giai cấp công nhân. Phủ nhận nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt đảng là phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Hai
là, nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo nghề, góp phần từng
bước trí thức hóa giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Tích cực đổi mới
nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực trong xã hội nói
chung, giai cấp công nhân nói riêng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước và hội nhập quốc tế. Tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại đội ngũ
công nhân đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu
cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển hết sức mạnh mẽ
hiện nay. Làm tốt công tác định hướng, giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong đào tạo
nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho
người lao động, nhất là công nhân. Chú trọng phối hợp giữa doanh nghiệp với cơ
sở đào tạo và Nhà nước để bảo đảm cân đối cung và cầu về nhân lực, sát với đòi
hỏi của thực tiễn.
Xây dựng, đào tạo
một thế hệ công nhân thực sự giỏi về chuyên môn, vững vàng về ý thức chính trị,
có phẩm chất nghề nghiệp và đạo đức trong sáng, vươn lên làm chủ công nghệ,
góp sức mình đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế.
Nâng cao chất
lượng đào tạo đối với đội ngũ công nhân đi lao động ở nước ngoài gắn với tuyên
truyền, giáo dục để họ nâng cao ý thức nghề nghiệp, nỗ lực học hỏi kinh nghiệm
quý báu; không tự ý ở lại, cư trú bất hợp pháp khi hết thời gian, hợp đồng lao
động, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của nước sở tại và ảnh hưởng không tốt
đến uy tín của đất nước, cũng như gây khó khăn cho công tác xuất khẩu lao động.
Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực, góp phần đào tạo được đội ngũ
công nhân theo chuẩn quốc tế.
Ba là, tiếp
tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, người lao động trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Trong quá trình
hội nhập quốc tế, cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng cần tiếp tục
đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Một số chính sách, pháp luật hiện hành
đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình
phát triển kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, cần được sửa đổi, bổ sung.
Bên cạnh đó, một số địa phương mới chỉ coi trọng việc thu hút đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp,
mà chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân, người lao động, chưa kết hợp tốt giữa việc phát triển
kinh tế với bảo đảm phúc lợi cho người lao động, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Bởi vậy, để
ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến sự
biến đổi của giai cấp công nhân nước ta, bên cạnh việc coi trọng phát triển
kinh tế cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người lao động,
tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tạo việc làm cho công
nhân; tiếp tục cải tiến chính sách tiền lương sao cho bảo đảm cuộc sống ngang bằng
với mức sống trung bình trong xã hội, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho người
lao động; phát huy dân chủ thực sự và nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn ở
các doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, có vốn đầu tư
nước ngoài; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, phát triển văn hóa nghề cho công nhân.
Chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần của công nhân, thực hiện nghiêm việc ký các hợp đồng lao động
và chú trọng thanh tra, kiểm tra điều kiện làm việc và cường độ lao động, không
để xảy ra những vi phạm về pháp luật lao động. Khuyến khích, động viên và khen
thưởng kịp thời các doanh nghiệp làm tốt và xử lý thích đáng các doanh nghiệp cố
tình không làm hoặc làm có tính chất đối phó, chiếu lệ việc chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của người công nhân… Quan tâm, tạo điều kiện về nơi ăn, ở, nơi
vui chơi, giải trí, các tiện ích văn hóa công, chế độ nghỉ dưỡng, học hành của
con em người lao động, đặc biệt là các chính sách như xây dựng nhà ở cho công
nhân các khu công nghiệp, chính sách vay ưu đãi mua nhà ở xã hội… Nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho công nhân, góp phần động viên họ phấn khởi làm việc,
cống hiến, sáng tạo trong lao động, sản xuất.
Năm là, nâng
cao bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển hết sức mạnh mẽ hiện nay,
để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức
công đoàn và các tổ chức chính trị – xã hội khác trong xây dựng giai cấp công
nhân, bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp, cần chú ý
nâng cao bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của hệ thống
chính trị.
Đội ngũ cán bộ,
đảng viên phải thực sự gương mẫu tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chấp hành nghiêm kỷ luật đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm minh, kịp thời những
cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất… Có như vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên mới
giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, để cùng giai cấp công nhân đi tiên
phong trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xóa bỏ áp bức bất công, nghèo nàn, lạc
hậu, xây dựng xã hội mới: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.