Một số vấn đề chung về nhân quyền
Ý thức về nhân
quyền và việc thực hiện nhân quyền là một quá trình lịch sử lâu dài gắn với
lịch sử phát triển của loài người và giải phóng con người qua các hình thái
kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp, qua đó quyền con người
trở thành giá trị chung của nhân loại.
Khái niệm nhân
quyền có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dưới dạng các quyền tự nhiên của con người
như quyền được sống... Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi
là con người, không có và không được thừa nhận các quyền con người. Chế độ
phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại quyền
tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là người đầu tiên nêu ngọn cờ
nhân quyền, biết lợi dụng các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý, vốn
là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn
mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người, “quyền tư hữu thiêng
liêng”. Lần đầu tiên các quyền con người được chính thức ghi trong các văn kiện
quan trọng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và
quyền công dân của Pháp 1789, Tuyên ngôn cộng sản 1848... Tuy vậy giai cấp tư
sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn
hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói
nghèo và bị bóc lột. Cách mạng tháng 10 Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền
con người: đó là các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh thế
giới 2, các nước XHCN đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản như
bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, đưa ra cách đề cập toàn diện và biện
chứng hơn về nhân quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài
người, nội dung các quyền con người tiếp tục phát triển. Theo phương pháp tiếp
cận lịch sử, các quyền con người có thể được chia thành ba thế hệ, thể hiện sự
phát triển của khái niệm quyền con người qua các giai đoạn lịch sử, như sau:
Thế hệ 1: Các quyền cá nhân trong
lĩnh vực dân sự, chính trị, các quyền bình đẳng và tự do cá nhân.
Thế hệ 2: Các quyền cá nhân trong
lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá.
Thế hệ 3: Các quyền tập thể như
quyền dân tộc cơ bản, tự quyết, bình đẳng giữa các dân tộc và quốc gia; quyền
phát triển, quyền thông tin, quyền được sống trong hoà bình, trong môi
trường lành mạnh...
Những tiến bộ
trong việc thực hiện nhân quyền là thành quả đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức chống đế quốc, thực dân và của nhân dân lao động chống sự bóc lột của phong
kiến, tư bản.
Các văn bản pháp
lý quốc tế về nhân quyền
Hiến chương
LHQ đã dành nhiều đoạn, mục khẳng định mục tiêu, quy định nghĩa vụ và trách
nhiệm của LHQ trong việc bảo vệ và thúc đẩy tôn trọng các quyền và quyền
tự do cơ bản của con người. Hiến chương LHQ và Tuyên ngôn nhân quyền là
hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền. Tuyên ngôn nhân quyền
(1948) được LHQ đánh giá là một trong những thành tựu lớn đạt được của LHQ và
có ý nghĩa lịch sử vì đã đưa ra được những chuẩn mực chung cho tất cả các nước
và dân tộc về các quyền con người. Ngày thông qua Tuyên ngôn nhân quyền
(10/12/1948) được LHQ lấy làm Ngày Nhân quyền và hàng năm đều kỷ niệm. Từ đó
quyền con người được pháp điển hoá trong một loạt Công ước quốc tế về nhân
quyền. Bộ luật quốc tế về nhân quyền ra đời và đến nay phát
triển thành 24 Công ước quốc tế về nhân quyền trong đó quan trọng nhất là
2 Công ước 1966 về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, văn
hoá, xã hội. Lần đầu tiên “quyền tự quyết của các dân tộc kể cả quyền của họ
được tự do sử dụng của cải và nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình” được đảm
bảo trong 2 công ước nêu trên (điều này trước đây không được nêu trong Tuyên
ngôn nhân quyền). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấy tranh vì quyền
tự quyết của các dân tộc, kể cả quyền lựa chọn con đường phát triển cho chính
họ. Quá trình pháp điển hoá và xây dựng các Công ước về nhân quyền là quá trình
đấu tranh gay gắt giữa các thế lực tư bản phương Tây và các lực lượng tiến bộ.
Về cơ bản, phần lớn các công ước đã ghi nhận được những nội dung tích cực, tiến
bộ. Cho đến nay, Việt nam đã tham gia 8 Công ước quốc tế về nhân quyền, kể cả
hai Công ước cơ bản về quyền chính trị dân sự, và về quyền kinh tế văn hoá xã
hội.
Quan điểm, đường
lối của Đảng về nhân quyền
Từ năm 1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và sau đó là Đảng Cộng sản
Đông Dương đã
từng bước xây dựng và hoàn thiện đường lối cách mạng nước ta. Dựa trên tinh
thần cơ bản của bản Chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo,
được Hội nghị thành lập Đảng thông qua vào đầu năm 1930, đường lối cách mạng do
Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng về sau đã luôn luôn thấm đượm tinh thần dân tộc
và tính nhân văn sâu sắc. Đó là đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, trong đó độc lập, tự do là
tư tưởng cốt lõi. Trong giai đoạn 1936-1939, vấn đề dân chủ, dân quyền, dân
sinh, dân nguyện… được đề cao nhưng vẫn luôn gắn liền với hai nhiệm vụ dân tộc
và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Những vấn đề về nhân quyền và
dân quyền giờ đây được phản ánh thông qua các cuộc đấu tranh đòi tự do ứng cử
và bầu cử, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do
tín ngưỡng, tự do nghiệp đoàn… Đây cũng là một bước chuẩn bị quan trọng để tiến
lên giành những quyền dân tộc cơ bản và thực thi những quyền ấy trong những năm
1939-1945.
Ngày 02-9-1945
trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân thủ đô
thuộc đủ các tầng lớp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh
trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thể quốc dân và nhân dân thế
giới rằng: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Tuyên ngôn độc lập trở
thành một văn kiện cực kỳ quan trọng, một áng “Thiên cổ hùng văn” được viết ra
bằng toàn bộ tâm huyết, trí tuệ, tư tưởng nhân văn và ý chí của một con người,
đại diện cho một dân tộc đang chiến đấu và sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do.
Bản Tuyên ngôn độc lập chỉ vỏn vẹn có 49 câu, với 1.010 chữ, nhưng lại chứa
đựng những nội dung vô cùng to lớn, ý nghĩa vô cùng sâu sắc, toát lên những vấn
đề rất căn bản, trong đó có vấn đề về nhân quyền, dân quyền và chân lý: không
có gì quý hơn độc lập, tự do.
Mở
đầu Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ ta, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng
bào và bạn bè quốc tế rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời nói bất hủ, mở
đầu cho Tuyên ngôn độc lập không chỉ là tư tưởng lớn về độc lập, tự do của dân
tộc, mà còn là tư tưởng cơ bản về quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta.
Trong
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và
giải phóng con người luôn hòa quyện với nhau và luôn nhất quán trong toàn bộ
cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh của Người. Con đường cách mạng mà Người đã
chọn, cuộc cách mạng mà Người lãnh đạo, những chủ trương, chính sách mà Người
đề ra và cả những việc làm rất cụ thể của Người, tất thảy đều nhằm bảo vệ con
người.
Trong thời kỳ đổi
mới, trên
cơ sở kế thừa thành tựu trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát
triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế,
nhận thức và đường lối chỉ đạo của Đảng ta về quyền con người tiếp tục có nhiều
bước phát triển mới.
Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) đã đề ra mục tiêu: xây dựng
một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; con người được giải phóng khỏi áp bức
bóc lột, bất công; có điều kiện phát triển toàn diên cá nhân. Nhận thức và quan
điểm về quyền con người đã được Đảng, Nhà nước ta phát triển và hoàn thiện dần
trong tiến trình đổi mới. Đại hội IX (năm 2001) của Đảng khẳng định: “Chăm lo
cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và
thực hiện các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”.
Ngoài các văn kiện
trên, Nghị quyết các Đại hội của Đảng và trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW,
ngày 12/7/1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số
41/2004/CT-TTg, ngày 2/12/2004, của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 44-CT/TW,
ngày 20/7/2010, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X,… cũng đã thể hiện sâu
sắc quan điểm, đường lối của Đảng ta về vấn đề quyền con người.
Vấn đề nhân quyền
trong pháp luật Việt Nam
Có
thể nói, Di sản hiến định mà Hiến pháp năm 1946 để lại cho các Hiến pháp sau -
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và 2013 là rất lớn. Mỗi Hiến
pháp đều ghi nhận cốt lõi những điều khoản về Nhân quyền trong Hiến pháp. Thế
nhưng, qua mỗi giai đoạn các bản Hiến pháp đã bộc lộ những thiếu sót mà các nhà
lập pháp chưa dự liệu được để Hiến pháp trở nên phù hợp với thực tiễn. Để khắc
phục những thiếu sót đó, Hiến pháp 2013 ra đời, trong đó quy định về nhân quyền
được coi là điểm sáng trong bản Hiến pháp này.
Hiến
pháp 2013 có 11 chương, 120 Điều. Trong đó, chương về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có Điều luật nhiều nhất, gồm 36 Điều (từ
Điều 14 đến Điều 49). Đây là chương quan trọng vì nói đến lập hiến là nói đến
mối quan hệ giữa công dân và các cơ quan Nhà nước. Quyền con người được quy
định trong chương II của Hiến pháp 2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ
sung và bố cục lại chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và Nghĩa vụ cơ bản
của công dân). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ sung
nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều
này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:
Một
là, đưa
vị trí chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân" từ chương
V trong Hiến pháp năm 1992 về chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay đổi vị
trí nói trên không đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay đổi về
nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, coi nhân
dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí quan trọng hàng đầu
trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và
Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng
và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Mặc
dù Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận thuật ngữ “quyền con người” - thông qua quy
định “quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể
hiện trong quyền công dân” tại Điều 50, Hiến pháp năm 1992 lại chưa phân biệt
rạch ròi được quyền con người với các quyền cơ bản của công dân. Khắc
phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con người”
và “quyền công dân”. Trong Hiến pháp sửa đổi, khi nói đến quyền con người thì
dùng từ “mọi người”, khi nói đến công dân Việt Nam thì dùng từ “công dân”. Quy
định này thể hiện sự phát triển quan trọngvề nhận thức và tư duy trong việc ghi
nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Theo quy định tại Điều
14, không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp
cần thiết nói trên do Luật định. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi quy định: việc hạn
chế quyền con người, quyền công dân dứt khoát phải được quy định bằng Luật,
không phải bằng văn bản dưới luật.
Hai
là, Hiến
pháp mới bổ sung một số quyền mới, thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và
phát triển quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước
ta. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác
(Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, Quyền được sống trong
môi trường trong lành (Điều 43). Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù
hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện
nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của
Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người.
Ba
là, kỹ
thuật lập hiến có nhiều đổi mới. Cách thể hiện có những điều riêng quy định về
nguyên tắc như Điều 14, Điều 15. Các nhà lập hiến đã tham khảo các Điều ướcquốc
tế mà Nhà nước ta là thành viên để nội dung các cách diễn đạt đảm bảo sự tương
thích. Ngoài ra, quyền con người không chỉ đề cập ở chương II mà ở nhiều chương
khác như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Như vậy,
bộ máy nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách tiếp cận quyền con
người này thể hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm tiến bộ của các nước trên
thế giới.
Tính
từ năm 2014 đến hết tháng 11/2019, QH đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hơn 100
văn bản Luật, pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân phù hợp với Hiến pháp 2013. Trong số đó có những Luật cơ bản, quan trọng
như: Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Bộ luật Dân sự 2015,
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, Luật Trưng
cầu dân ý 2015, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016, Luật Trẻ em 2016, Luật Báo chí
2016, Luật Tiếp cận thông tin 2016, Luật An ninh mạng 2018, Luật Đặc xá 2018,…
Trong năm 2019, QH tiếp tục thông qua nhiều Luật liên quan đến quyền con người,
quyền công dân như: Luật Thi hành án hình sự, Bộ Luật lao động, Luật Xuất cảnh,
nhập cảnh của công dân Việt Nam,…
Việc
hoàn thiện khung pháp luật về quyền con người, quyền công dân nói trên đã phản
ánh đúng bản chất của chế độ ta, đó là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Tăng cường cơ chế dân chủ, công khai để
mọi cá nhân trong xã hội đều có thể tham gia xây dựng, quản lý xã hội, giám sát
các hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như tạo ra khuôn khổ pháp lý để các cơ
quan nhà nước hoạt động tốt hơn, phục vụ tốt hơn nhu cầu của mọi tầng lớp Nhân
dân.
Trong
lĩnh vực hình sự và tố tụng: Bộ luật Hình sự 2015 thể chế hóa chủ trương tăng cường khả
năng áp dụng các chế tài không tước tự do, hạn chế hình phạt tù, tiếp tục thể
chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tử hình được khẳng định tại các
Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp; sửa đổi, bổ sung chính sách hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội, đặc biệt là đối với các em từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi, theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các em trên tinh
thần bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu
niên… Nguyên tắc suy đoán vô tội, không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm,
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 cũng điều
chỉnh, mở rộng diện mạo người bào chữa gồm cả Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa
miễn phí cho các đối tượng chính sách, mở rộng các trường hợp bắt buộc cơ quan
tố tụng phải mời người bào chữa, bảo đảm cho người bào chữa nhanh chóng tiếp
cận với quá trình giải quyết vụ án, bổ sung quy định người bị bắt/bị can/bị cáo
có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống đối mình hoặc buộc phải nhận tội. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa
án,…
Trong
lĩnh vực dân sự và kinh tế: Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung các nguyên tắc chung về xác
lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự; quy định trách nhiệm của Tòa án, cơ quan
có thẩm quyền khác trong việc bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân. Các
luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đẩu tư, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ,
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh
nghiệp, Luật Phá sản,… đã hoàn thiện thể chế pháp lý bảo đảm thực thi quyền
hiến định về tự do kinh doanh, góp phần xóa bỏ rào cản về đầu tư, kinh doanh
không phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam.
Thực
tiễn thực thi nhân quyền của Việt Nam
Đến
nay có thể khẳng định Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và vững chắc
về nhân quyền. Điều đó không chỉ thể hiện ở những nổ lực của chúng ta trong xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà còn được thể hiện ở việc bảo đảm quyền
còn người, quyền công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên
lĩnh vực bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, kết quả nổi bật trong năm
2019 là tốc độ tăng GDP cả năm ước đạt trên 6,8%, thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao hàng đầu khu vực, thế giới. Môi trường kinh doanh tiếp tục
được cải thiện. Tập trung đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính,
tiết giảm chi phí, hỗ trợ tiếp cận thị trường và các nguồn lực. Phát huy tinh
thần khởi nghiệp, phát triển mạnh mẽ các mô hình đổi mới, sáng tạo; ước cả năm
có khoảng 134 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và hàng chục nghìn doanh nghiệp
hoạt động trở lại. Tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung trong 9 tháng đầu năm đạt
trên 3 triệu tỷ đồng. Tập trung chỉ đạo, củng cố và phát triển khu vực kinh tế
tập thể, nhất là hợp tác xã kiểu mới; đến nay có gần 24 nghìn hợp tác xã kiểu
mới với đa số hoạt động hiệu quả.
Trong
năm 2019, các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng, cơ bản gắn kết hài
hòa với phát triển kinh tế, chất lượng cuộc sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện rõ rệt. Các
chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững được các
cấp, các ngành tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết quả. Cơ cấu lao
động tiếp tục chuyển dịch tích cực; tạo thêm 1,62 triệu việc làm; mở rộng diện
bao phủ bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm 1 - 1,5%
(còn khoảng 3,73 - 4,23%); trong đó các huyện nghèo giảm trên 4%. Thành tích
giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh
giá cao.
Trên
lĩnh vực giáo dục, cho đến nay đã có 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Bình đẳng giới là một
trong những chỉ số về quyền con người quan trọng. Cho đến nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XIV (2016 - 2021), tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Quốc hội đạt 26,71%, cao hơn
mức trung bình thế giới là 22,3%; phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở kinh
doanh đạt hơn 27,8%. Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về
công nhận các danh hiệu văn hóa. Cho đến năm 2018, Việt Nam có thêm 11 di tích
và 29 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được xếp hạng.
Trên
lĩnh vực quan hệ quốc tế về quyền con người, Nhà nước ta đã thể hiện nhất quán
là một thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng Quốc tế, trong đó có Hội đồng
nhân quyền. Việt Nam từng được bầu là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp
quốc (Nhiệm kỳ 2014-2016).
Nhận diện âm mưu
của các thế lực thù địch lợi dụng nhân quyền để chống phá Việt Nam
Dân chủ, nhân
quyền luôn là một trong những vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt
để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hòng đưa nước ta đi theo
quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức
ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong.
Trong đó, chúng đã tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau:
Một là, vu cáo,
xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, ra sức tuyên
truyền, cổ súy cho dân chủ tư sản phương Tây
Các thế lực thù
địch ra sức xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước ta; cho rằng chế độ xã hội ở Việt Nam là độc tài, chuyên chính. Chúng
lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót của ta
trong thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc những vấn đề bức
xúc trong nhân dân để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình,
gây mất ANCT-TTXH. Chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị
dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người
với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích
cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người
theo mô hình của phương Tây; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản
của con người; đàn áp “những người bất đồng chính kiến”.v.v..Từ chỗ cho rằng,
quyền con người là tuyệt đối, bất biến, các thế lực thù địch đã giải thích nhân
quyền là tự do thực hiện quyền mà không bị cấm đoán, không bị giới hạn nhằm cổ
xuý hoạt động lợi dụng nhân quyền vi phạm pháp luật nước ta. Các thế lực thù
địch còn lợi dụng những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm
thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế để xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước ta, vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền,
đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng kích động quần chúng, tín đồ gây rối ANCT-TTXH,
tạo cớ để bên ngoài can thiệp.
Hai là, dùng dân
chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta
Hoa Kỳ và các nước
đồng minh luôn gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân
chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp
nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân
chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các buổi điều trần, họp báo, hội
thảo của Quốc hội Mỹ, các nước Châu Âu để gây sức ép buộc Việt Nam phải có
những “tiến bộ cụ thể về nhân quyền, tôn giáo”. Thông qua các diễn đàn công
khai như hội thảo, hội nghị khoa học, các buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ
quan chức năng của Việt Nam yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các
điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền, thành lập Tòa án Hiến pháp ở nước ta.
Họ còn gửi thư, bản kiến nghị tới Liên hiệp quốc, Quốc hội, Chính phủ các nước,
lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta để phản đối việc chính quyền bắt giữ, xét xử một số
đối tượng chống đối trong nước, đòi trả tự do cho các “tù nhân lương tâm”. Lợi
dụng việc chính quyền đấu tranh, xử lý số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị
vi phạm pháp luật, chúng đã tạo cớ, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân
quyền, đàn áp người “bất đồng chính kiến” và những người “yêu nước”, kêu gọi sự
can thiệp của cộng đồng quốc tế. Các thế lực bên ngoài còn thông qua các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài triển khai các dự án hỗ trợ cải cách tư pháp để
tìm cách hướng lái, can thiệp vào quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật của
Việt Nam và gây sức ép, đặt điều kiện đòi ta mở rộng các quyền và tự do cơ bản
của công dân theo tiêu chí của họ, tạo hành lang hoạt động cho số chống đối
chính trị, các tổ chức “xã hội dân sự” trong nước.
Ba là, dùng chiêu
bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị
đối lập với Nhà nước
Đây là một trong
những hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch nhằm “diễn biến hòa bình” với
nước ta. Chúng cho rằng việc tồn tại nhiều đảng phái chính trị lãnh đạo xã hội
là tiêu chí duy nhất của dân chủ; đồng thời xuyên tạc rằng, chế độ độc đảng ở
Việt Nam là trở ngại lớn nhất trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, muốn có
dân chủ thực sự thì Việt Nam nên xóa bỏ chế độ độc đảng. Chúng phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng, phủ nhận lịch sử dân tộc ta, cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã
lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; từng bước làm
mất lòng tin cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua
đó, chúng tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân
chủ, nhân quyền”, “yêu nước” như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Nhóm công
dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”.v..v..Chúng ra sức tuyên truyền về vai trò
của các tổ chức dân sự trong xã hội, qua đó hòng thúc đẩy sự ra đời của các
khuynh hướng dân chủ cực đoan, phát triển “xã hội dân sự”, hình thành các tổ
chức chính trị, hội nhóm bất hợp pháp. Chúng tìm cách móc nối, lôi kéo một bộ
phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất, số cấp tiến là lãnh đạo
các cơ quan, ban ngành để mua chuộc, lôi kéo tạo dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng
chống phá từ bên trong. Chúng còn tuyên truyền, vận động số người có trình độ
thấp, số biểu hiện cơ hội, bất mãn ký tên vào kiến nghị, tuyên bố…nhằm đưa ra
yêu sách “dân chủ, nhân quyền”,“bảo vệ chủ quyền”…mục đích là thêu dệt, bóp méo
tình hình thực tế ở trong nước, qua đó tập hợp lực lượng hình thành các hội
nhóm chống chính quyền, như: Tuyên bố 72 ra “bản kiến nghị sửa
đổi” Hiến pháp theo mô hình dân chủ đa nguyên, v..v..Ở bên ngoài, các tổ
chức phản động lưu vong ráo riết hỗ trợ kinh phí, chỉ đạo đường lối đối với số
trong nước phục hồi tổ chức, kích động tư tưởng ly khai, tự trị để lừa mị, lôi
kéo, tập hợp quần chúng tổ chức biểu tình, bạo loạn; hình thành các hội nhóm,
tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước.
Bốn là, tác động
Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế ban hành văn bản
xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam
Các thế lực thù
địch tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật,
nghị quyết, báo cáo thường niên.v..v..với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ,
nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn
giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước; điển
hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ, Báo cáo tình
hình nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Úc, Nghị quyết của Nghị viện Châu
Âu..v..v..Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hàng năm đã liên tục thông qua nhiều
Dự luật, Nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam như: Dự luật HR 1587
(năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị
quyết H.Res.484.v..v…Các báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế như: Tổ
chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Nhà Tự do (FH), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ), Tổ
chức Ân xá Quốc tế (AI)... mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “chuyển biến tích
cực” về dân chủ, nhân quyền nhưng vẫn xuyên tạc tình hình thực tế trong nước,
vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền. Ngoài ra, các thế lực bên ngoài
còn tác động các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Đức…tổ chức các
buổi điều trần, hội thảo nhằm xuyên tạc, vu cáo hoặc thổi phồng các sự kiện
thực tế trong nước để rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, dân
tộc hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, chúng còn tìm
cách thông qua các chính khách cực đoan như: Z.Lofgren, C.Smith…tác động Quốc
hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn
giáo” (CPC) để áp dụng các biện pháp “trừng phạt” đối với nước ta.
Giải pháp thực
hiện
Một là, công
tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm ANQG, TTATXH
nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của
Đảng; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác
phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá ngay từ cấp cơ sở. Nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ
và đấu tranh nhân quyền, âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền chống
phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và Nhân dân để huy
động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện các chính sách, văn bản pháp luật nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền
con người đi đôi với việc kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy
quyền dân chủ của Nhân dân trên cơ sở pháp luật. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận
động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước. Xây dựng và củng cố hệ thống chính
trị ở cơ sở đảm bảo thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về dân tộc, tôn giáo. Tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm
soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn
việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền ở
nước ta.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công
tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu đảm bảo quyền con người của
chúng ta. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại;
tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng
quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm bảo quyền con người,
góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu vu cáo chúng ta vi phạm dân
chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng can thiệp nội bộ.
Bốn là, chủ động triển khai nắm
tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền
của các thế lực thù địch để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp
thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm
nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các
vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù
hợp, đảm bảo yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại theo hướng kiên định về
nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, kiên quyết không làm phức
tạp thêm tình hình, không sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo…kết hợp với thực hiện công
bằng xã hội, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm góp phần
đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của người dân trên cơ sở pháp luật;
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định ANCT-TTATXH. Tiếp tục
thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các khuyến nghị về nhân quyền mà Việt
Nam đã chấp thuận. Tăng cường hợp tác trên lĩnh vực nhân quyền./.
0 nhận xét: