28/2/22

Phản bác quan điểm “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”

 


Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Vậy mà gần đây lại xuất hiện quan điểm cho rằng “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”.

Phản biện hay phản bội?

Từ lúc chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng, lợi dụng việc góp ý văn kiện, một số người đã “phản biện” quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ nên tập trung lãnh đạo chính trị, không nên lãnh đạo kinh tế”; “Đảng chỉ nên tự khuôn mình trong phạm vi “chính trị”, còn kinh tế là địa hạt của giới kinh doanh”…

Hai năm gần đây, do ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chững lại, một số người lại đổ lỗi cho “Đảng Cộng sản Việt Nam không biết lãnh đạo kinh tế”, họ lại tiếp tục “phản biện” trên các mạng xã hội, trả lời báo chí nước ngoài rằng: “Đảng không nên “lấn sân” của Quốc hội, Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế” và “khuyến nghị”: “Trong lĩnh vực kinh tế, đã có Quốc hội ban hành pháp luật và giám sát tối cao, đã có Chính phủ quản lý điều hành, không cần Đảng lãnh đạo”… Đó là những quan điểm sai lầm, lợi dụng phản biện để phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.

Thực tiễn đã khẳng định kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, quy định và chế ước lẫn nhau. Trên thế giới hiện nay, không có đảng phái chính trị nào không gắn kết với kinh tế. Lênin đã từng chỉ ra rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại.

Kinh tế quyết định chính trị, chính trị phản ánh kinh tế, nhưng chính trị không thụ động trước kinh tế, mà có vai trò tác động trở lại với kinh tế hoặc tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu là chính trị đúng đắn, sáng suốt; hoặc tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội, nếu là chính trị sai lầm.  

Các đảng lớn của các nước tư bản phát triển đều đưa ra đường lối chính trị, dẫn dắt sự phát triển xã hội theo lý tưởng, mục tiêu đã lựa chọn. Trong đường lối chính trị đó đều có đường lối phát triển kinh tế.

Thực tiễn tại Việt Nam trong thế kỷ qua cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Cũng có lúc Đảng ta có sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo kinh tế, nhưng trong suốt 92 năm qua, chưa bao giờ Đảng ta xem nhẹ, buông lỏng vấn đề lãnh đạo kinh tế.

Nhờ chú trọng lãnh đạo kinh tế, bảo đảm sự đúng đắn và nhất quán về quan điểm chính trị trong lãnh đạo kinh tế mà Đảng ta đã nhanh chóng sửa chữa được khuyết điểm, giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế quan trọng, nhất là hơn 35 năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. 

Khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường

Để “chứng minh” rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam không nên lãnh đạo kinh tế”, một số người xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, họ cho rằng “không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”; “KTTT, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng XHCN vào KTTT là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn”…

Có lẽ những người nói trên đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu bản chất của cơ chế thị trường và những khuyết tật của KTTT. Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh tế hàng hóa; các phạm trù giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, các quy luật cạnh tranh, quy luật cung-cầu, quy luật giá trị của kinh tế hàng hóa cũng là các phạm trù và quy luật của KTTT.

Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản (CNTB), được CNTB nắm lấy, sử dụng để phát triển thành KTTT tư bản chủ nghĩa. Trải qua thời gian, KTTT tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều biến đổi. Thời kỳ đầu khi mới ra đời, KTTT tư bản chủ nghĩa là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có sự can thiệp của nhà nước.

Sự điều tiết của “bàn tay vô hình” của thị trường đã đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, nảy sinh ra nhiều khuyết tật của cơ chế thị trường, đòi hỏi phải có bàn tay quản lý của nhà nước.

Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của thị trường, vừa có điều tiết bằng “bàn tay hữu hình” của nhà nước; trong đó, điều tiết của thị trường là cơ sở, nền tảng và điều tiết của nhà nước trên cơ sở tôn trọng điều tiết của thị trường (công cụ quản lý, điều tiết kinh tế của nhà nước là luật pháp, chính sách và các nguồn lực kinh tế của nhà nước).

Thực tế cho thấy, KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới không phải hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung, định hướng can thiệp của nhà nước.

Có mô hình KTTT tự do ở những nước mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thấp; nhà nước chỉ bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, tự do kinh doanh, bảo đảm trật tự, ổn định xã hội, còn để phạm vi điều tiết của thị trường lớn, điều tiết mọi hoạt động kinh tế.

Có mô hình KTTT xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo cơ hội như nhau cho mọi người tham gia phát triển và hưởng thành quả phát triển, chống lại độc quyền, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội (như ở Đức).

Có mô hình KTTT phúc lợi xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để điều tiết thu nhập, phát triển các dịch vụ xã hội công, bảo đảm phúc lợi cho người dân, đặc biệt là những người cần được trợ giúp là trẻ em, người già, người thất nghiệp… (như ở các nước Bắc Âu). Có mô hình KTTT nhà nước phát triển, nhà nước không chỉ tạo thể chế, môi trường cho các chủ thể kinh tế hoạt động, mà còn có chiến lược, chính sách và sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước để định hướng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế (như ở Nhật Bản, Hàn Quốc)…

Phát triển KTTT định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm hạn chế những khuyết tật của KTTT. Định hướng XHCN của nền KTTT được bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; thể hiện ở quan hệ phân phối để mọi người đều được hưởng thành quả phát triển đất nước.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là mô hình KTTT định hướng XHCN. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã được hiến định trong Hiến pháp, văn bản pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp cũng hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng không làm thay các cơ quan Nhà nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bằng cách tạo ra bảo đảm chính trị cho hoạt động kinh tế, xác định phương hướng chính trị cho hoạt động kinh tế đúng đắn và lành mạnh .

Chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân là định hướng mục tiêu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng chủ trương “phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm”. Lãnh đạo kinh tế của Đảng đã trở thành mắt xích chủ yếu, quan trọng, thiết thực và quyết định nhất trong toàn bộ đường lối lãnh đạo, trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã vượt qua bao gian nan, thử thách, được cả thế giới ngưỡng mộ, đặc biệt là trong thời kỳ phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Ngân hàng Standard Chartered mới đây đã đưa ra dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022, với tốc độ tăng trưởng 6,7%, tăng trưởng năm 2023 là 7% và Việt Nam tiếp tục có triển vọng tích cực trong trung hạn.

Trong bản Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 2, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh khởi đầu năm 2022, nền kinh tế Việt Nam có nhiều tín hiệu tích cực. Fitch Ratings là một trong những tổ chức có cái nhìn lạc quan nhất về kinh tế Việt Nam với dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,9% trong năm nay và 6,5% vào năm 2023.

Báo chí quốc tế trong thời gian gần đây đã có nhiều bài đánh giá tích cực triển vọng kinh tế Việt Nam nhờ chính sách ứng phó linh hoạt với Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh tế đang ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ. Chuyên trang tư vấn đầu tư ở châu Á Vietnam Briefing của công ty Dezan Shira nhận định, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mới mà Việt Nam tham gia sẽ đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khi Việt Nam mở cửa biên giới, tăng tốc phục hồi.

Các FTA không chỉ giúp phát triển kinh tế, mạng lưới sản xuất, mà còn góp phần nâng cao các tiêu chuẩn lao động. Tờ Reuters cũng có bài viết khẳng định: Nhờ các chính sách linh hoạt của Chính phủ Việt Nam, các hoạt động kinh doanh đã được khôi phục, đặc biệt là từ quý IV năm trước, nhờ đó, ngành dệt may Việt Nam đã hạn chế đáng kể sự gián đoạn chuỗi cung ứng, kỳ vọng tăng mạnh xuất khẩu trong năm nay.

Thực tiễn đã trả lời rõ ràng cho câu hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam có nên lãnh đạo kinh tế hay không. Thực tiễn cũng đã khẳng định những luận điệu tuyên truyền “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế” là xuyên tạc, kích động. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái này.

 

Thủ đoạn đánh lận bản chất vụ Việt Á để chống phá Đảng, Nhà nước


Trong khi vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đang được các cơ quan chức năng tích cực mở rộng điều tra để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để khai thác, lợi dụng vụ án để xuyên tạc, công kích chống phá Đảng, Nhà nước.

Một số trang mạng xã hội của các tổ chức, hội nhóm ngoài nước, hãng thông tấn như Việt Tân, RFA, VOA… lợi dụng vụ việc này tung ra những luận điệu bôi xấu chế độ, xuyên tạc bản chất vụ việc. Nhiều bài viết vu cáo Việt Nam chống tham nhũng bằng cách hô hào khẩu hiệu, hướng lái dư luận, đổ lỗi việc để xảy ra những vụ án như vậy là do chế độ, lỗi do Đảng, Nhà nước.

RFA viết rằng: “Vụ Việt Á, mọi việc trở nên tồi tệ”, rồi rêu rao, hạ thấp vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn phỏng vấn, phát tán các video, hình ảnh, bài viết với nội dung sai trái, cực đoan của những đối tượng gắn mác “chuyên gia”, “học giả”, những cá nhân tự cho mình là những “nhà phản biện” để ra sức bóp méo, đả phá xung quanh vụ việc trên. Tung ra nhiều bài viết cho rằng “Ban Chỉ đạo vào cuộc chỉ để giải quyết hậu quả”; đưa ra luận điệu quy kết vấn nạn tham nhũng “thủng từ gốc”. Từ vụ việc tại Việt Á, các đối tượng xâu chuỗi những vụ án tham nhũng lớn gần đây rồi quy kết, công cuộc chống tham nhũng “chỉ trên khẩu hiệu”, không đạt kết quả đáng kể nào do “chế độ độc đảng”!

Với những thông tin mà các hội, nhóm, cá nhân trên đưa ra cho thấy sự suy diễn, thổi phồng, nhiều bài viết bịa đặt, xuyên tạc tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Về vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á, qua các chiêu trò của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại được nhào nặn, chế biến thành công cụ, phương tiện rất nguy hại nhằm đánh lận hiện tượng để quy kết bản chất. Các đối tượng nhào nặn vụ án rồi suy diễn thành “lỗi hệ thống”, bóp méo chủ trương “kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ” trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta.

Từ vụ việc, mục đích các đối tượng tung ra thông tin sai lệch nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tạo hoài nghi về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội.

Chúng ta thấy rằng, tham nhũng là một hiện tượng xã hội, hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt quốc gia đó theo chế độ chính trị nào, dù cho đó là nước nghèo hay giàu, quốc gia phát triển, đang phát triển hay kém phát triển; không phân biệt do một đảng hay do đa đảng lãnh đạo. Do vậy, không thể lấy vụ án tham nhũng tại Công ty Việt Á cũng như các vụ án tham nhũng, tiêu cực khác để gán ghép, suy diễn là do “độc đảng” như cái cách mà các thế lực thù địch đang tìm cách đổ lỗi, quy trách nhiệm, cố tình quy kết tình trạng tham nhũng, tiêu cực là do chế độ.

Thực tế, quan điểm trong phòng, chống tham nhũng của Đảng ta được thể hiện rất rõ trong các văn kiện của Đảng, trong đó Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”. Để phòng, chống, đẩy lùi tham nhũng, suy thoái, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, đi cùng với đó là sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp gắn với việc điều tra, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, tạo sức răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Ngày 20/1/2022, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ban Chỉ đạo) đã họp phiên thứ 21 dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo. Phát biểu kết luận phiên họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả rõ rệt, có mặt cao hơn năm trước, khẳng định quyết tâm mạnh mẽ, không ngừng, không nghỉ, không vì chống dịch mà chùng xuống, không xử lý. Đối với vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đã gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với công tác phòng, chống dịch và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước.

Để xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân sai phạm, cảnh báo, răn đe mạnh mẽ hơn nữa, ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của nhân dân, Thường trực Ban Chỉ đạo thống nhất đưa vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á vào diện được Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo. Theo đó, Ban Chỉ đạo yêu cầu Đảng ủy Công an Trung ương, Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan, chỉ đạo các cơ quan chức năng tập trung lực lượng, khẩn trương, quyết liệt, mở rộng điều tra làm rõ bản chất của vụ án, xử lý nghiêm các sai phạm theo quy định của pháp luật; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.

Hiện, các cơ quan chức năng đang khẩn trương điều tra, làm rõ vụ án để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; đồng thời rà soát, thu hồi triệt để tài sản cho Nhà nước. Cùng với đó, Ban Chỉ đạo giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương tiến hành kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên có liên quan để kịp thời xử lý nghiêm theo quy định của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương kiểm tra, thanh tra, điều tra xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng công tác phòng, chống dịch bệnh để tham nhũng, tiêu cực. Giao Ban Nội chính Trung ương – Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng đôn đốc, kiểm tra, tham mưu Thường trực Ban Chỉ đạo để chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh. Trước đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Công an chủ trì, mở rộng vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần công nghệ Việt Á, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt và thất thoát, sớm đưa các đối tượng ra xét xử.

Như vậy, từ khi vụ việc tại Công ty Việt Á được phát giác đến nay, các cơ quan chức năng đã khẩn trương đẩy nhanh tốc độ, mở rộng điều tra vụ án; ban đầu điều tra các đối tượng của một địa phương, sau đó mở rộng sang các đối tượng của địa phương khác. Điều đó thể hiện những nỗ lực, quyết tâm cao, hành động xuyên suốt, nhất quán. Thực tế trong công cuộc phòng, chống tham nhũng những năm qua theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) đã chứng minh, pháp luật Việt Nam nghiêm minh “không thiên tư, thiên vị”, các cá nhân, tổ chức sai phạm đều được làm rõ để xử lý nghiêm. Thời gian qua, đối với những tổ chức, cá nhân có các hành vi tham nhũng chính sách, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID -19 để trục lợi đều bị xử lý nghiêm minh, không có việc Đảng, Nhà nước “tránh trách nhiệm” như những gì mà các thế lực thù địch rêu rao, vu cáo.

Qua vụ Việt Á cho thấy, chống tham nhũng, tiêu cực phải đi liền với chống lợi ích nhóm, suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vụ án cũng chứng minh chủ trương “kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ” của Đảng, Nhà nước ta được thực thi trên thực tế chứ không phải “khẩu hiệu suông, mị dân” như luận điệu kẻ xấu. Chúng ta đã thấy rõ những tác hại của vấn nạn tham nhũng gây ra, thấy rõ sự vào cuộc đồng bộ, mạnh mẽ, quyết tâm cao trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của cả hệ thống chính trị.

Đồng thời, với tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh chống “đạn bọc đường” và âm mưu của kẻ địch lợi dụng cuộc đấu  tranh đó để chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi mỗi người phải luôn nâng cao cảnh giác, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn, xuyên tạc phá hoại công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không để bị lôi kéo, kích động, biến thành những con rối.

 


“Bội thực” lời kính “quan to”…

 

Có mặt tại một buổi lễ động thổ xây dựng trung tâm văn hóa – thể thao của huyện, những người dự lễ được chứng kiến từ đầu đến cuối màn “trình diễn” ngôn từ hết sức bài bản của các nhà tổ chức. Gọi là “trình diễn” và bài bản vì nó được trau chuốt một cách công phu, chu đáo, tỉ mỉ đến mức không thể bắt bẻ vào đâu được. Thế nhưng, sẽ chẳng có gì đáng nói nêu một đại biểu cấp trên đến dự được “kính thưa, kính mời, kính chúc” đến… 9 lần. Lời mào đầu của người làm công tác tổ chức: “Kính thưa đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh…”.

Sau khi tuyên bố lý do, đến phần giới thiệu đại biểu, giọng nói hào sảng của người làm công tác tổ chức lại vang lên: “Đến dự lễ động thổ hôm nay, thay mặt ban tổ chức, tôi xin nhiệt liệt chào mừng và trân trọng giới thiệu đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh…”.

Tiếp đó là phần trình bày báo cáo triển khai dự án của chủ tịch UBND huyện. Câu mở đầu của người trình bày là lời trang trọng: “Kính thưa đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh…”.

Ít phút sau, chủ tịch UBND huyện tiếp tục bày tỏ những lời chứa chan: “Thay mặt Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong huyện, tôi xin trân trọng cảm ơn đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh… dù bận rất nhiều việc nhưng vẫn sắp xếp thời gian đến dự lễ động thổ xây dựng trung tâm văn hóa – thể thao của huyện”.

Và đây là đoạn cuối của người trình bày báo cáo: “Một lần nữa, thay mặt huyện ủy, UBND huyện, tôi xin trân trọng cảm ơn và kính chúc đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh… luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, thường xuyên quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ huyện tiếp tục phát triển giàu mạnh, văn minh”.

Vẫn giọng trịnh trọng, người làm công tác tổ chức lại vang lên: “Tiếp theo chương trình buổi lễ, tôi xin trân trọng kính mời đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh …” lên phát biểu ý kiến.

Đồng chí TD phát biểu ý kiến xong, bí thư huyện ủy lên bục phát biểu cảm ơn lãnh đạo tỉnh: “Thay mặt huyện ủy, UBND huyện, tôi xin tiếp thu và xin hứa sẽ thực hiện thật tốt những ý kiến chỉ đạo quan trọng của đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh…”.

Đến phần làm lễ động thổ, vẫn là lời bừng bừng khí thế của người làm công tác tổ chức: “Tiếp theo là phần làm lễ động thổ. Tôi xin trân trọng kính mời đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh… cùng các đồng chí lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, ủy ban mặt trận Tổ quốc huyện lên vị trí động thổ, xúc những xẻng đất đầu tiên”.

Kết thúc buổi lễ, người làm công tác tổ chức thể hiện giọng điệu phấn chấn: “Buổi lễ động thổ đến đây là kết thúc. Một lần nữa, thay mặt ban tổ chức, tôi xin trân trọng cảm ơn đồng chí TD, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh …và các vị đại biểu khách quý đã đến dự và làm lễ động thổ trung tâm văn hóa – thể thao huyện”.  

Không biết vị lãnh đạo cấp trên có cảm thấy ngại ngùng khi cấp dưới “kính” bản thân mình đến 9 lần chỉ trong một buổi lễ động thổ diễn ra trong khoảng một tiếng đồng hồ? Nhưng nhiều người có mặt tại buổi lễ cảm thấy rất chối tai, thậm chí có người tỏ ra khó chịu vì liên tục phải nghe đi nghe lại cái kiểu “kính” vừa rườm ra, vừa tốn thời gian không cần thiết.

Sau khi chứng kiến buổi lễ động thổ đó, một bác cựu chiến binh than thở: “Hết kính thưa lại đến kính mời rồi kính chúc. “Kính” nào cũng tỏ ra trang trọng hết mức nhưng nhiều “kính” quá đâm ra thành “loạn” kính. Quả là: “Kính thưa, kính chúc, kính mời/ Cả ba kính ấy toàn lời “hót hay”/ Rượu nhạt uống lắm cũng say (*)/ Người xưa căn dặn, người nay quên rồi?/ Kính nhiều quá hóa…lôi thôi/ Biến nơi trang trọng thành nơi diễn trò/ “Bội thực” lời kính “quan to”/ Nịnh nhau kiểu ấy, đừng cho là thường”!./.

 

Trí tuệ sáng suốt qua thực tiễn lịch sử hoạt động của Đảng và của lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh

Trí tuệ sáng suốt của Đảng thể hiện tập trung ở năng lực lãnh đạo của tập thể cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, đặc biệt ở cấp cao nhất và ở phẩm chất trí tuệ của lãnh tụ, của người đứng đầu. Trí tuệ sáng suốt bảo đảm cho việc đưa ra quyết định đúng và kịp thời trên cơ sở phân tích, đánh giá chính xác tình hình và lực lượng các bên tương quan; đáp ứng những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra trước phong trào cách mạng, trước Đảng để thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên; huy động và đoàn kết được các lực lượng xung quanh Đảng để tiến hành những hoạt động sáng tạo theo mục tiêu đã xác định.

Trí tuệ sáng suốt của Đảng, trước hết là tìm ra phương hướng, hoạch định chính xác đường lối chiến lược và những nhiệm vụ phải giải quyết trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng; bên cạnh đó, còn là khả năng xác định rõ ràng những điều kiện cần và đủ để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng. Trí tuệ sáng suốt liên quan trực tiếp đến tầm nhìn chiến lược, nhìn xa trông rộng, được dẫn dắt bởi tư duy khoa học lý luận; nhận thức và hành động đúng quy luật, vận dụng sáng tạo quy luật khách quan bằng sự nỗ lực cao độ của nhân tố chủ quan, nhưng không phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí; không bị chủ nghĩa kinh nghiệm chi phối, vượt lên trình độ kinh nghiệm thông thường để vươn tới trình độ lý luận, làm chủ lý luận tiên phong; là năng lực sử dụng lý luận như một phương pháp, để chẳng những áp dụng sáng tạo lý luận trong thực tiễn, mà còn có năng lực tổng kết thực tiễn một cách có lý luận, từ thực tiễn mà phát hiện và phát triển lý luận mới.

Đảng ta, mà tập trung tiêu biểu ở Chủ tịch Hồ Chí Minh và những cộng sự gần gũi của Người trong Bộ Chính trị, trong Ban Chấp hành Trung ương, đã thực hiện xuất sắc những chỉ dẫn có tính nguyên tắc phương pháp luận của V.I. Lê-nin:  “thống nhất lý luận với thực tiễn”, nhất quán quan điểm thực tiễn (tiêu chuẩn của chân lý) với quan điểm phát triển và đổi mới (tư duy biện chứng, động và mở chứ không tĩnh và đóng kín); “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác”. Kế thừa tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thực hành sinh ra hiểu biết/Hiểu biết tiến lên lý luận/Lý luận lãnh đạo thực hành”(5).

Kinh nghiệm cách mạng Việt Nam cho thấy, chừng nào Đảng có tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo thì hoạch định đường lối, đề ra phương châm, biện pháp đúng, do đó thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển tốt đẹp; ngược lại, chừng nào Đảng phạm phải sai lầm giáo điều, máy móc, chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tiễn, không tôn trọng quy luật khách quan, làm trái quy luật thì không tránh khỏi sai lầm về đường lối, chủ trương, chính sách, kết cục là đưa phong trào cách mạng tới chỗ gặp khó khăn, khó tránh khỏi thất bại.

Khi quyết định và khởi xướng công cuộc đổi mới, tại Đại hội VI, tháng 12-1986, Đảng ta nhấn mạnh bài học lớn:

– Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

– Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.

– Phải thấm nhuần tư tưởng “Dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” để mọi chủ trương, chính sách, mọi việc làm đều hướng vào dân, phục vụ lợi ích của dân, đáp ứng đúng nguyện vọng chính đáng của dân.

Có đường lối đổi mới tại Đại hội VI là bởi Đảng ta đã nêu cao trí tuệ sáng suốt trên cơ sở tổng hợp, tích hợp từ trí tuệ sáng suốt của nhân dân, lắng nghe tiếng nói của nhân dân từ cơ sở, cũng là sự thấu hiểu lòng dân, nhận ra “mệnh lệnh của cuộc sống”. Rõ ràng, nếu không có trí tuệ sáng suốt thì không thể sinh thành tư tưởng đổi mới, đường lối đổi mới, các quyết sách kịp thời của đổi mới; không thể trả lời rõ ràng, chính xác câu hỏi đầy hệ trọng đang đặt ra: “Tồn tại hay không tồn tại?”, “Đổi mới hay là chết?”.

Nhờ có trí tuệ sáng suốt mà Đảng ta nhận biết và khẳng định: Đổi mới là cơ may ngàn vàng để phát triển; phải đón đúng thời cơ, không bỏ lỡ thời cơ, đồng thời chủ động vượt qua thách thức, nguy cơ, dù là nghiệt ngã. Nhờ trí tuệ sáng suốt mà Đảng ta nhận ra biện chứng của sự chuyển hóa: Đón đúng và tận dụng có hiệu quả thời cơ thì sẽ hạn chế và vượt qua được các thách thức; khi đó, thách thức lại trở thành thời cơ phát triển mới. Ngược lại, bỏ lỡ thời cơ (mà nhiều khi, thời cơ chỉ xuất hiện một lần, đến rất nhanh và trôi đi rất mau, sẽ không bao giờ xuất hiện lại) thì thách thức, nguy cơ tăng lên, phức tạp và gay gắt hơn, thậm chí làm thất bại cả một phong trào, một sự nghiệp. Bài học đổi mới của Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo là sự tiếp tục hợp lô-gíc từ những kinh nghiệm thành bại của ông cha trong lịch sử, trước xu hướng canh tân của dân tộc và thế giới.

Đảng ta kế thừa và phát huy được trí tuệ sáng suốt đầy mẫn cảm, thông tuệ và mưu lược của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh:

+ “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(6).

+ Cách mạng trước hết phải có Đảng, Đảng trước hết phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa giống như người không có trí khôn… Chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin, Mác – Lê-nin. Trong Đảng ai ai cũng phải theo chủ nghĩa đó.

+ Cách mạng phải đến nơi (tức là triệt để), theo gương cách mạng Nga do Lê-nin lãnh đạo.

+ Cách mạng là đổi mới, phát triển, có kế thừa, phải thường xuyên giải quyết mối quan hệ giữa cũ và mới như một cuộc đấu tranh.

Không phải cái gì cũng phải làm mới tất cả. Cái gì cũ mà vẫn đúng và tốt thì nên dùng, cái gì cũ tuy đúng và tốt nhưng phiền hà, kích rích trong áp dụng vì điều kiện mới nảy sinh, thì phải sửa chữa nó đi. Còn cái gì cũ mà tỏ ra lỗi thời, lạc hậu thì phải bỏ… Cái gì mới mà thực sự là đúng, là tốt, là cần thì phải kiên quyết áp dụng(7).

Thực tiễn cho thấy, có những cái cũ thực sự là lỗi thời nhưng vì người ta đã quá quen nên vẫn coi là thường (đó là lực cản tâm lý dẫn tới trì trệ, bảo thủ, ngại thay đổi). Có những cái mới tuy là tiến bộ, là cách mạng nhưng vì nó còn lạ, nên con người và các tổ chức đều chưa sẵn sàng tâm lý tiếp nhận, người ta vẫn coi là xấu, vẫn chống lại. Do đó, khắc phục một thói quen cũ, tiếp nhận một tư tưởng mới, giải quyết mối quan hệ giữa cũ và mới là cả một cuộc đấu tranh, phức tạp, lâu dài, phải quyết tâm, phải có phương pháp khoa học mới giải quyết được(8).

+ Cho đến Di chúc để lại cho toàn dân, toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho chúng ta tư tưởng của Người về đổi mới: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(9).

Rõ ràng là, những tư tưởng, luận điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ những ngày chuẩn bị lập Đảng, dựng nước cho đến tận những ngày tháng cuối cùng của một cuộc đời, một sự nghiệp đau đáu việc dân, việc nước, lo cho hiện tại và trù tính cho tương lai, chính là biểu tượng kiệt xuất cho trí tuệ Việt Nam, cho trí tuệ sáng suốt của Đảng. Người là lãnh tụ kiệt xuất của Đảng cách mạng chân chính, Đảng của trí tuệ, Đảng của đổi mới, Đảng của phát triển. Người là kết tinh cho sức mạnh sáng tạo của Đảng và dân tộc, sức mạnh truyền cảm hứng vĩ đại cho toàn Đảng, toàn dân hướng tới tương lai và triển vọng tốt đẹp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – một xã hội văn hóa cao. Với tiềm lực tư tưởng, trí tuệ của dân tộc, dân tộc Việt Nam nhất định sẽ trở thành một dân tộc thông thái. Trí tuệ sáng suốt của Đảng là phẩm chất cơ bản của Đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo thành công sự nghiệp vẻ vang đó, theo khát vọng Hồ Chí Minh.

Trí tuệ sáng suốt, xét ra không chỉ là năng lực trí tuệ, mà còn có bệ đỡ của đạo đức, phẩm hạnh. Với đảng cộng sản cầm quyền, cùng với trí tuệ khoa học, đảng phải có đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng để không bao giờ mất phương hướng trong lãnh đạo và cầm quyền, nhất là ở những thời điểm thử thách bước ngoặt. Cộng hưởng tất cả những tác nhân đó làm nên sức mạnh, bản lĩnh của Đảng trên nền tảng sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. V.I. Lê-nin đã từng cảnh báo, nguy cơ lớn nhất với đảng cầm quyền là xa rời quần chúng, thoát ly thực tiễn, phải luôn luôn đề phòng “căn bệnh kiêu ngạo cộng sản” và tệ hành chính quan liêu cũng như nạn hối lộ (tham nhũng). Những “căn bệnh” tệ hại đó đều sẽ được sinh ra, nếu đảng cộng sản cầm quyền không rèn luyện đạo đức, không giữ gìn bản chất của Đảng.

Và, nếu một đảng lãnh đạo, cầm quyền lại mất phương hướng chính trị thì đồng nghĩa với hành động tự sát, đưa cả phong trào và sự nghiệp cách mạng tới thất bại. Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, mất vai trò cầm quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ sau bảy thập niên tồn tại (dù đã có không ít công trạng hiển hách, huy hoàng) như điều đã xảy ra cách đây ba thập niên là một minh chứng đau đớn, một bi kịch thời đại, mãi mãi có ý nghĩa cảnh báo, còn nguyên tính thời sự với Đảng ta và các đảng cộng sản khác. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ tầm nhìn chiến lược, “tầm mắt đại dương” của trí tuệ sáng suốt và đạo đức cao cả, trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh – một thiên tài tư tưởng và tổ chức của Đảng, của dân tộc ta.

Sự sáng suốt trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta là ở chỗ nhận ra xu thế, triển vọng của lịch sử, tin với một niềm tin khoa học chính xác nhất, tin với một niềm tin cách mạng mãnh liệt nhất, đó là tin vào sức mạnh của nhân dân, của chủ nghĩa yêu nước, giá trị cao quý nhất của lịch sử Việt Nam, của văn hóa Việt Nam, là chung đúc của chân lý và đạo lý, đạo nghĩa dân tộc và thời đại để khẳng định rằng, đế quốc Mỹ xâm lược nhất định thua, nhân dân Việt Nam nhất định thắng. Đó là một điều chắc chắn(10). Đây là một thông điệp mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền tới dân tộc và truyền đi cả thế giới nhân loại. Cho đến khi viết Di chúc, mà Người khiêm nhường chỉ gọi là một bức thư, là mấy lời để lại, niềm tin mãnh liệt của Người không hề thay đổi. Với một nỗi niềm tiếc nuối – vĩ đại và cao thượng của một nhân cách lớn của thời đại(11), Người chỉ tiếc rằng, “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(12). Đó là đạo đức cao cả của con người đã tự nguyện dâng hiến cả đời mình cho dân cho nước. Người nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”(13), cũng là trí tuệ sáng suốt Hồ Chí Minh, đúng như một triết lý nhân sinh: “Ai có đạo đức sẽ tiếp thu chân lý dễ hơn”. Với trí tuệ sáng suốt, Đảng lãnh đạo và cầm quyền sẽ lãnh đạo, cầm quyền bằng khoa học, bằng chính trị, đạo đức và văn hóa.

Những bài học rút ra từ trí tuệ sáng suốt của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh cần tiếp tục được vận dụng và phát triển hiện nay

– Bài học thứ nhất, trí tuệ sáng suốt của Đảng có được là nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận khoa học với thực tiễn hoạt động trong những điều kiện lịch sử cụ thể, nhờ có năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không máy móc, giáo điều, cứng nhắc, trí tuệ khoa học phải gắn liền với đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng trước mọi biến cố và thử thách. Trí tuệ sáng suốt đòi hỏi sự vận dụng đúng thiên thời, địa lợi với nhân hòa mà nhân hòa là gốc, là quan trọng nhất. Đó cũng là sự sáng suốt trong nhận thức và xử lý các mối quan hệ Thời – Thế và Lực: tranh thời, tạo thế, xây dựng và củng cố vững chắc lực lượng. Đó là khoa học và nghệ thuật trong đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa giànhchính quyền và giữ vững chính quyền.

Các sự kiện trong lịch sử của Đảng ta từ khi Bác Hồ về nước, hơn 80 năm trước, như Hội nghị Trung ương 8 quyết định chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận Việt Minh, nêu cao tinh thần đại đoàn kết (ngày 19-5-1941), Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (ngày 22-12-1944), Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 13 – 15-8-1945), Quốc dân Đại hội tại Tân Trào (ngày 16 – 17-8-1945). Lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc và các thư từ, lời kêu gọi đồng bào của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập, giải quyết sáu nhiệm vụ cấp bách ngay sau ngày tuyên bố độc lập… cho đến cải tổ Chính phủ lâm thời và Chính phủ liên hiệp, soạn thảo Hiến pháp và Tổng tuyển cử bầu Quốc hội… đã trở thành những ví dụ kinh điển về trí tuệ, bản lĩnh, mưu lược của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước những bước ngoặt lịch sử.

Bài học quan trọng này cần được vận dụng và phát triển trong thời điểm hiện nay là tiếp tục đổi mới sáng tạo, đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên hàng đầu, khơi dậy, phát huy khát vọng Việt Nam, khát vọng Hồ Chí Minh; vận dụng tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” trước thời cơ mới, thách thức mới với nỗ lực hành động mới; nêu cao quyết tâm, tín tâm và đồng tâm của toàn Đảng, toàn dân ta để thực hiện khát vọng dân tộc cường thịnh và trường tồn.

– Bài học thứ hai, dựa vào nhân dân, phát huy cao độ lòng yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cách làm tốt nhất là đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Thấm nhuần sâu sắc ý thức dân tộc và tính chất nhân dân của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, nên Đảng phải ra sức giải phóng sức dân, phát triển sức dân, thường xuyên bồi dưỡng sức dân lại phải biết “tiết kiệm sức dân” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ có sự giúp đỡ của nhân dân, trí tuệ sáng suốt của nhân dân mà Đảng nuôi dưỡng và không ngừng phát triển trí tuệ sáng suốt của mình. Khi đã cầm quyền, Đảng càng phải gần dân, học dân, hỏi dân, phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo của dân, dựa vào dân để phát huy mọi nguồn lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, phát hiện và trọng dụng nhân tài, bởi con người là vốn quý nhất, nhân tài, hiền tài ở ngay trong quần chúng. Trong đội ngũ của Đảng, càng có nhiều nhân tài, hiền tài càng tốt; đó là cơ sở và nguồn lực, tiềm lực làm cho Đảng luôn có trí tuệ sáng suốt.

Bài học này đang tiếp tục được phát huy trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong thực hành đoàn kết, dân chủ và trong công tác dân vận, trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng; Đảng phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, không được xa rời nhân dân.

Phê phán các luận điệu sai trái, xuyên tạc vấn đề “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

 

Nhận diện một cách đầy đủ và đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với âm mưu, ý đồ, thủ đoạn của các đối tượng chống phá, xuyên tạc là góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức tự đề kháng, củng cố niềm tin của mỗi người cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; qua đó, khơi dậy sự chung sức, đồng lòng của toàn dân tộc nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Cơ sở khoa học và thực tiễn của “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”

Một trong những điểm mới và quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII là lần đầu tiên Đảng ta xác định “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(1). Đây cũng là bước đột phá trong tư duy của Đảng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Ấy vậy mà các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị, phản động, chống đối, lại đang rêu rao, xuyên tạc rằng, đó là quan điểm duy tâm chủ quan, một khẩu hiệu trống rỗng, phi thực tế, phản khoa học,… hòng thực hiện mưu đồ xuyên tạc, bóp méo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta.

Chúng lý sự rằng, “khát vọng” là yếu tố tinh thần, là mặt tinh thần của đời sống xã hội; do đó, khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần đề cập và nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII (từ chủ đề Đại hội, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược) thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần và lấy nó làm cơ sở, nền tảng cho sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước, nên rõ ràng là một quan điểm duy tâm chủ quan; đi ngược lại lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trái với chủ nghĩa Mác – Lê-nin (?!).

Xét bản chất, dựa trên lý luận của triết học Mác – Lê-nin về tính độc lập tương đối của ý thức và vai trò, sức mạnh to lớn của tinh thần con người, chúng ta có đủ luận cứ, luận chứng khoa học để phản bác các luận điệu sai trái, nhưng hết sức tinh vi, xảo quyệt nói trên của các thế lực thù địch. Đó là, tuy khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nhưng các nhà kinh điển mác-xít cũng đồng thời nhấn mạnh, ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động, sáng tạo nên có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, V.I. Lê-nin khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(2). Đặc biệt, ý thức tiến bộ, cách mạng một khi được giáo dục, khơi dậy và phát huy đúng cách ở mỗi cá nhân sẽ trở thành sức mạnh tinh thần vĩ đại trong cải tạo xã hội. Đúng như C. Mác đã nói: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(3).

Điều đó có nghĩa, ý thức, tư tưởng hay tinh thần của con người, trong đó có các khát vọng chính đáng, hợp lý, hoàn toàn không phải là sản phẩm tiêu cực, thụ động, mà luôn chứa đựng sức mạnh tiềm tàng rất to lớn. Và để hiện thực hóa sức mạnh ấy, để biến nó thành sức mạnh vật chất, đòi hỏi phải biết thường xuyên khơi dậy, bồi đắp và chuyển hóa nó thành các hành động cụ thể, các phong trào xã hội thiết thực. Như C. Mác đã viết: “tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”(4) và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý… Bổn phận của chúng ta là… phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”(5). Vì vậy, trong mỗi thời kỳ, ở mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, giá trị và sức mạnh của tinh thần yêu nước cũng như khát vọng phát triển đất nước luôn phụ thuộc rất lớn vào khả năng khơi dậy, phát huy và hiện thực hóa của các thế hệ.

Thực tiễn cũng đã chứng minh, trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự hình thành, phát triển của mỗi quốc gia – dân tộc phụ thuộc trước hết vào khát vọng sống, tồn tại và vươn lên của cộng đồng dân tộc đó. Không hiếm dân tộc hay nền văn minh trên thế giới bị đồng hóa, bị tiêu diệt trong quá trình biến thiên lâu dài của lịch sử, khi không có sự đoàn kết toàn dân tộc, nhất là thiếu khát vọng độc lập, tự cường và phát triển. Đối với dân tộc Việt Nam, yếu tố này lại càng nổi bật và biểu hiện sinh động hơn hết. Như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, không ngừng được đắp bồi và phát triển, tinh thần yêu nước cùng với khát vọng phát triển đất nước là những giá trị tiêu biểu, tạo nên sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Chính khát vọng cháy bỏng phải giành, bảo vệ cho được độc lập, tự do, thống nhất đất nước đã tạo nên sức mạnh phi thường để dân tộc ta trường tồn và phát triển. Trong lịch sử, ông cha ta đã đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của các đế quốc ngoại bang, giữ vững nền độc lập dân tộc không phải chủ yếu bằng tiềm lực quân sự, bằng sức mạnh vật chất, mà chủ yếu là bằng sức mạnh quật khởi vĩ đại của sự đoàn kết, của khát vọng về chủ quyền quốc gia.

Một mặt, với những lý luận sắc bén và thực tiễn sinh động, dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực đầy đủ, cùng với tư duy biện chứng, tầm nhìn chiến lược và nhạy bén chính trị, sự kiên định và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã rất đúng, rất trúng khi xác định một cách mạch lạc, đầy sức thuyết phục về khát vọng phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đó là động lực quan trọng, nguồn năng lượng nội sinh to lớn để đưa đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển, “cất cánh” trong kỷ nguyên mới. Văn kiện Đại hội XIII hoàn toàn không tuyệt đối hóa vai trò động lực của khát vọng phát triển đất nước, mà xác định rất rõ đây là một trong những động lực để tạo thành “hợp lực” cho đổi mới, phát triển và hội nhập; là động lực tinh thần chứ không phải động lực vật chất; là động lực thúc đẩy chứ không thể thay thế vai trò cơ sở, nền tảng quyết định của yếu tố kinh tế, vật chất. Do đó, trước những luận điệu cho rằng quan điểm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII là duy tâm chủ quan, mỗi người có sự hiểu biết và tỉnh táo, khách quan đều thấy rõ đó chỉ là một sự non kém về kiến thức triết học và tri thức lịch sử,… hoặc là những ý đồ chính trị hết sức tinh vi và thâm độc, một dạng của thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung, vốn không được bất kỳ khoa học nào đánh giá cao.

Mặt khác, Văn kiện Đại hội XIII đã được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và các tổ chức chính trị – xã hội, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; được góp ý, chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần (riêng Báo cáo chính trị là khoảng 30 lần); được nhiều nhà khoa học, nhà lý luận nghiên cứu, biên soạn một cách cẩn trọng, nghiêm túc, cân nhắc từng từ, từng câu, từng chữ. Văn kiện được đánh giá có quá trình chuẩn bị “rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn,giữa kiên định  đổi mới, giữa kế thừa  phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc”(6). Văn kiện có văn phong trong sáng, súc tích, giản dị, từ ngữ chắt lọc, dễ nhớ, dễ thực hiện; mỗi nhận định, đánh giá, nội dung bổ sung đều có căn cứ xác đáng, nhất là những luận điểm mới như vấn đề “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Tất cả những điều đó chứng minh tính khoa học, khách quan của những đánh giá, các mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện Đại hội XIII.

Thế nhưng, các thế lực thù địch đã, đang lớn tiếng cho rằng, đó chẳng qua chỉ là một lời hiệu triệu, một ước vọng hão huyền, vì nó chỉ có ý nghĩa hô hào, mang tính chất khẩu hiệu thuần túy, trong khi không xác định được những chủ trương, không định vị rõ lộ trình, không đề ra biện pháp cụ thể để hiện thực hóa khát vọng đó. Vì tính quy chụp, xảo ngôn đó, những luận điệu này đã thể hiện một “tư duy thiển cận”, phiến diện, siêu hình và về thực chất, chỉ là một cái nhìn đầy định kiến, “sặc mùi” cơ hội chính trị và phản khoa học.

Bởi lẽ, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không những xác định rõ các chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn, mà còn đề xuất phương hướng và hệ thống những giải pháp mang tính đồng bộ, khoa học, khả thi cao để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Điều này không chỉ thể hiện sự sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng, mà còn là cơ sở khoa học, là bằng chứng hùng hồn để phản bác lại những quan điểm sai trái, cố tình bóp méo, xuyên tạc Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ta.

Quyết tâm hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của dân tộc ta trong thời gian tới

Một là, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” đã được Văn kiện Đại hội XIII thể chế hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể, với lộ trình và bước đi phù hợp với điều kiện thực tế.

Có thể nói, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” vừa là động lực, vừa là mục tiêu chiến lược, cao đẹp, xuyên suốt và lâu dài của Đảng, của cả dân tộc ta. Tất nhiên, việc thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đó không phải là công việc giản đơn, có thể hoàn thành trong “một sớm một chiều”. Nhưng quán triệt nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn, kế thừa và bổ sung cho phù hợp với những biến đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước và có sự nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước; đồng thời, trên cơ sở phân tích, dự báo kỹ lưỡng những thời cơ, tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong,… Văn kiện Đại hội XIII đã xác định khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không chỉ được thể hiện, thực hiện trong nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng, mà còn “hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(7). Và điều này cũng nhất quán với khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XII: Nói Đại hội XIII không phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021 – 2026) mà phải có tầm nhìn chiến lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng tới tương lai.

Như vậy, việc thể chế hóa, cụ thể hóa “khát vọng phát triển đất nước” thành các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, chương trình hành động, kế hoạch, lộ trình thực hiện mang tính tổng thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta cũng như những diễn biến của tình hình thế giới,… là một trong những phương cách khả thi nhất để góp phần hiện thực hóa khát vọng này. Nếu mục tiêu, chỉ tiêu của từng thời kỳ, từng giai đoạn được thực hiện thắng lợi, thì sẽ trực tiếp góp phần hoàn thành mục tiêu chiến lược, tức là hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đã được xác định.

Hai là, Văn kiện Đại hội XIII đã vạch ra định hướng và xác định hệ giải pháp cơ bản để hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

Đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc là cả một quá trình cải biến xã hội mang tính toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa sự chuyển hóa về lượng và biến đổi về chất,… của hệ thống các nhân tố tham gia. Nói cách khác, đó là sự nghiệp cách mạng to lớn, mặc dù rất vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách, nhiều cam go, phức tạp. Vì vậy, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này, Văn kiện Đại hội XIII xác định phải huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Theo đó, một mặt, Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ, cần tăng cường tuyên truyền, giác ngộ, truyền cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, với sự sinh động, phong phú, thiết thực và hiệu quả bằng các hình thức, phương pháp khác nhau. Trọng tâm là “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc”(8). Chú trọng hun đúc tình cảm và bầu nhiệt huyết cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trách nhiệm công dân và nghĩa đồng bào của quần chúng nhân dân. Làm cho khát vọng phát triển đất nước trở thành niềm vinh dự, tự hào, phương châm, lẽ sống và hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người dân Việt Nam. Khơi dậy ở đội ngũ thanh niên Việt Nam tinh thần chủ động, dấn thân, xung kích, sáng tạo và lòng khát khao cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”(9).

Mặt khác, Văn kiện Đại hội XIII còn nhấn mạnh tới việc cần chủ động tạo lập các yếu tố, điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi làm cơ sở, động lực để khơi dậy và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước ở mỗi con người Việt Nam. Bởi một điều dễ nhận thấy là, một khi mỗi người dân đã hiểu rõ được những gì họ cần làm để thể hiện lòng yêu nước, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước; thì khi đó, cần tạo những điều kiện, cơ chế, chính sách và môi trường thuận lợi cho mỗi người dân thể hiện lòng yêu nước của mình. Tức là, phải “Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”(10). Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, từng bước hoàn thiện các chính sách kinh tế – xã hội phù hợp, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tốt tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của người dân; giải quyết tốt vấn đề việc làm, thu nhập của người lao động.

Bên cạnh đó, cần thực hành triệt để dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực chất quyền làm chủ của nhân dân, coi trọng “ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11). Phát huy tính tích cực chính trị – xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia vào các công việc chung của đất nước. Thực hiện đầy đủ, triệt để và thực chất phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đẩy lùi nạn tham nhũng, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước. Tạo lập và phát huy sức mạnh đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, cụ thể hóa phương thức biểu hiện “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” – một biện pháp mang tính đột phá của Văn kiện Đại hội XIII.

Trên thực tế, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không phải là cái gì xa vời, khó hiểu, khó định lượng, bởi Văn kiện Đại hội XIII đã cụ thể hóa thành những phương thức biểu hiện rõ ràng, gắn với yêu cầu về hành động, việc làm thiết thực của mỗi người dân Việt Nam. Trong đó, từ góc độ kinh tế, khát vọng phát triển đất nước được thể hiện chủ yếu ở tinh thần vươn lên xóa bỏ cái “biệt danh” nước nghèo, chậm phát triển. Mặc dù công cuộc đổi mới đất nước sau hơn 35 năm của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới; tuy nhiên, “dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế”(12). Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ, khát vọng phát triển đất nước hiện nay chính là ý thức lao động hăng say và sáng tạo, nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng của mỗi người dân; nhất là sự cố gắng phấn đấu của thanh niên nước nhà “trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp”(13).

Từ góc độ chính trị – xã hộimột mặt, khát vọng phát triển đất nước là niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tinh thần lạc quan về tương lai tươi sáng của đất nước, tiền đồ tốt đẹp của dân tộc; khắc phục triệt để tâm lý tự ti, nhược tiểu. Kiên định, kiên trì, nhất quán mục tiêu, lý tưởng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao ý thức tự giác và gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Đó còn là tinh thần đoàn kết, kiên quyết đấu tranh chống lại những thói hư tật xấu, cái bảo thủ trì trệ trong tư duy, suy nghĩ và cách làm; nghiêm khắc lên án, đấu tranh quyết liệt với các hiện tượng tiêu cực xã hội, nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bảo vệ sự trong sạch của bộ máy đảng và nhà nước.

Mặt khác, hiện nay hội nhập quốc tế đã trở thành một vấn đề có tính quy luật, là một tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia – dân tộc; do đó, để phát triển đất nước, tất yếu chúng ta phải mở cửa, hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, hội nhập quốc tế luôn chứa đựng cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau. Vì thế, để tận dụng thời cơ, phát huy những yếu tố thuận lợi; khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải kiên định nguyên tắc chiến lược đi đôi với thực hiện sách lược mềm dẻo, linh hoạt trong hội nhập quốc tế; lấy phương châm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường làm chủ đạo; đồng thời, phát huy tối đa các nhân tố bên ngoài có lợi, tích cực, chủ động mở rộng hợp tác quốc tế. Chúng ta hội nhập với thế giới để phát triển nhưng không để bị “hòa tan”, không “đánh mất mình”; trái lại, phải giữ vững nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(14).

Từ góc độ khoa học và tri thức, đã như một chân lý – muốn đi xa, hành trang phải đầy đủ, vì vậy, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước rất cần những con người có tri thức, đủ năng lực và trình độ để thực hiện khát vọng đó. Đặc biệt, để phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực chủ động hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,… càng không thể thiếu vai trò to lớn, động lực then chốt của khoa học, công nghệ và tri thức. Do vậy, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ, thế hệ trẻ nước nhà hiện nay cần thể hiện khát vọng phát triển đất nước của mình bằng hành động xung kích nơi “trận tuyến” tri thức, khoa học và công nghệ; dám nghĩ, dám làm, năng động, nhạy bén và sáng tạo, “làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại”(15); đi tắt, đón đầu trong nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ của khoa học, công nghệ vào sản xuất, đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, giá thành hạ.

Văn kiện Đại hội XIII và quan điểm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện càng khẳng định tính đúng đắn, khoa học và cách mạng bao nhiêu thì lại càng vấp phải sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch bấy nhiêu. Việc các thế lực thù địch, phản động ra sức công kích, bài bác và phủ nhận Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ càng chứng tỏ tính đúng đắn và giá trị của đường lối, chủ trương mà Đảng đã hoạch định, được nhân dân kỳ vọng, tin tưởng, ủng hộ, đồng tình./.

 

26/2/22

Bảo vệ nền tảng của Đảng – Một số bài học kinh nghiệm đối với giai đoạn hiện nay

 


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã trở thành nguyên tắc tự thân của Đảng, trong thực tiễn được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo, tùy vào tình hình thực tế mà có cách thức phù hợp, hiệu quả, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm. 1. Nhìn lại lịch sử hơn 90 năm công tác tư tưởng của Đảng, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch giai đoạn hiện nay.

Một là, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một phương thức để Đảng tự bảo vệ mình. Công tác này trở thành nguyên tắc tự thân – nhu cầu tất yếu khách quan mà Đảng phải tiến hành trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là ở những thời điểm cam go có tính chất bước ngoặt của cách mạng.

Hai là, luôn đa dạng hóa các lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nhưng phải xây dựng được lực lượng nòng cốt đủ mạnh đi tiên phong trên mặt trận tư tưởng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tuyên giáo của Đảng. Bên cạnh việc Đảng ban hành các nghị quyết, chỉ thị, chỉ đạo tổ chức tiến hành công tác tư tưởng dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, huy động cán bộ, đảng viên, cả hệ thống chính trị tích cực vào cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh quyết liệt với các luận điệu sai trái, thù địch, thì ở những thời điểm nhất định, rất cần tiếng nói trực tiếp, tác phẩm tầm cỡ, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc của các đồng chí lãnh đạo cấp cao, đặc biệt là đồng chí Tổng Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, các đồng chí Bí thư tỉnh ủy, Trưởng Ban tuyên giáo các cấp…

Ba là, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trở thành nguyên tắc tự thân của Đảng, nhưng phải linh hoạt, mềm dẻo, tùy vào tình hình thực tế để có cách thức phù hợp, hiệu quả, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm. Trong mọi hoàn cảnh, luôn kiên định lập trường vô sản, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; bám sát thực tiễn để làm sáng rõ, cụ thể hơn giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bốn là, trong mọi tình huống đều phải coi trọng, chủ động, tích cực, kiên quyết, kịp thời dùng luận cứ khoa học, đủ sức thuyết phục để đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; coi trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh (tự làm trong sạch bản thân) là nhân tố hàng đầu để bảo vệ Đảng. Kiên quyết tẩy trừ tiêu cực trong Đảng và ngoài xã hội là phương cách thiết thực, hiệu quả nhất để bảo vệ Đảng, củng cố, giữ vững niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.

Năm là, chú trọng công tác dự báo, cảnh báo sớm về thời điểm, khả năng, âm mưu, thủ đoạn mà các thế lực phản động, thù địch chống phá để có cách thức đấu tranh phù hợp, hiệu quả.

Trong chiều dài lịch sử cho thấy, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội thường tấn công mạnh vào các thời điểm cam go, ví dụ như: năm 1931 – khi phong trào cách mạng 1930-1931 thất bại, nhiều đảng viên bị bắt bớ tù đày, giết chóc, nhiều cơ sở đảng bị tan rã; những năm 1937-1938 – trước thềm chiến tranh thế giới II, chủ nghĩa Trotxky lộng hành, phá hoại cách mạng; ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 – khi tình thế nước nhà “ngàn cân treo sợi tóc”; từ cuối 1954 – khi ta bị những sai lầm trong cải cách ruộng đất; năm 1991 – khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ; và trong giai đoạn hiện nay – khi có sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ.

Trong một năm, chúng thường tập trung chống phá vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn (ngày kỷ niệm thành lập Đảng 3/2; ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4, kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5; Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9…); thời điểm diễn ra Đại hội Đảng, kỳ họp Quốc hội, bầu cử, các chuyến thăm của nguyên thủ quốc gia, lúc bùng phát điểm nóng về chính trị, khi địa phương có vụ việc tranh chấp, chống đối chính quyền, khi có quyết định phiên xét xử tội phạm…

2. Nhận thức rõ và phát huy những bài học kinh nghiệm nêu trên trong bối cảnh hiện nay, cần nhấn mạnh một số vấn đề như:

Thứ nhất, có nghiên cứu đầy đủ, khách quan, toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch qua các thời kỳ cách mạng; chỉ ra ưu điểm, hạn chế, tổng kết bài học kinh nghiệm, phát huy cách làm hay và hiệu quả, vận dụng vào thực tiễn giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện về vai trò, đóng góp của Đảng ta đối với sự nghiệp cách mạng; chỉ ra hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục, rút kinh nghiệm; tuyên truyền khách quan, đầy đủ, sâu rộng những tấm gương cán bộ, đảng viên chiến đấu, hy sinh, cống hiến qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là những đảng viên vì lợi ích của Đảng, nhân dân và dân tộc mà sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở những thời điểm cam go có thể biết trước sẽ khó thoát khỏi án tử hình của kẻ thù. Điều này sẽ đánh thức nhận thức ở một bộ phận người chỉ nhìn vào mặt hạn chế ở hiện tại mà quên đi, hoặc phủ định tất cả mặt tốt của Đảng trong quá khứ; chỉ rõ những hạn chế, tiêu cực xảy ra hiện nay là hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, chứ hoàn toàn không phải là bản chất của Đảng.

Thứ ba, nghiên cứu thật bài bản, kỹ lưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ rõ những vấn đề cốt lõi có tính nguyên tắc, rường cột, bền vững; những vấn đề từng đúng, nay vẫn đúng và sẽ còn đúng; những vấn đề đã đúng, nay đang đúng nhưng tương lai có thể không còn phù hợp; những vấn đề đã đúng, nay không còn phù hợp cần phải điều chỉnh, bổ sung; những vấn đề đang hiểu chưa đúng hoặc bị hiểu lầm, dịch thuật chưa sát ý… Lấy đó làm căn cứ xác đáng nhất giúp cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân làm đấu tranh, phản bác, ngăn chặn sự xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch.

Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đối với sự nghiệp cách mạng và tiền đồ của Đảng và chế độ ta, đồng thời có tác động trực tiếp tới cuộc sống mỗi người dân Việt Nam. Nâng cao “sự miễn dịch” cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trước những thông tin xấu độc, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động; làm cho mọi người nhận thấy việc bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ là nghĩa vụ, trách nhiệm không của riêng ai.

Thứ năm, nhân rộng điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, đặc biệt là cán bộ đảng viên tốt, hành động đẹp trong xã hội, cơ quan, đơn vị, gia đình; đưa tin có chừng mực về các vụ việc tiêu cực, tăng lượng thông tin tốt, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”.

Chắc chắn, những quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu phản bác quan điểm sai trái, thù địch sẽ tiếp tục được khẳng định, bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa trong các văn kiện Đảng tiếp theo.

 

25/2/22

Những kẻ “đánh bùn sang ao” không thể nào bác bỏ chân lý

            Vin vào cớ cuộc chiến giữa hai nước láng giềng Nga và Ucraina vừa diễn ra sáng ngày 24-2-2022, một số người dù chưa hiểu biết đầy đủ về căn nguyên, gốc gác của các nguồn tin và bản chất của mọi vấn đề, đã vội phán xét “như đúng rồi” câu chuyện vừa xảy ra hôm qua như người trong cuộc với lời lẽ đầy ác ý, rất thiếu tính xây dựng dù mới chỉ “biết sơ sơ, chỉ nghe thoang thoảng, thấy lờ mờ” vài hình ảnh qua báo, đài và mạng xã hội, rồi vội quy kết, khẳng định đúng sai nhiều vấn đề chính trị – quân sự rất thiếu căn cứ, võ đoán. Đây là điều không nên bởi việc tung tin, lan truyền những tình tiết thiếu chuẩn xác, chưa được kiểm chứng vô hình chung gây nhiễu loạn thông tin, tạo dư luận xấu, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần xã hội ta, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như cuộc đấu tranh phòng, chống đại dịch Covid-19 của nhân dân ta.

Một trong những chiêu trò xấu độc, đáng lên án là chống phá, hạ thấp uy tín của những người sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong đó, hạ thấp vai trò, giá trị, ý nghĩa học thuyết và phủ nhận những cống hiến vĩ đại của V.I. Lênin đối với giai cấp công nhân và cách mạng Nga, cũng như đối với cách mạng Việt Nam là một chiêu thức điển hình, vô cùng thâm độc.

Những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đã “mượn gió bẻ măng”, lấy cớ cuộc chiến giữa Nga – Ucraina để thực hiện một công hai việc: vừa làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Lênin, chủ nghĩa Mác – Lênin, gây tổn thương tình cảm của nhân dân ta đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu, vừa buộc tội Đảng, Bác Hồ về việc lựa chọn sai lầm về đường lối cách mạng vì tin và đi theo Lênin, chủ nghĩa Mác – Lênin, “làm cản trở sự phát triển của dân tộc”. Từ đó, họ đòi Đảng ta phải từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện “thay máu cho hệ tư tưởng”, mà thực chất là mở đường “đón rước hệ tư tưởng tư sản và văn hóa phương Tây vào Việt Nam”, coi đó là biện pháp để không tái diễn mâu thuẫn ý thức hệ và lợi ích quốc gia, dân tộc như sự kiện vừa xảy ra ở Nga – Ucraina.

Đây là thái độ, hành vi và những thủ đoạn vô cùng tinh vi, xảo trá cần vạch mặt, trừng trị đúng pháp luật Việt Nam vì nó sai cả đạo lý và pháp lý.

Chúng ta đều biết trong số các vĩ nhân có cống hiến lớn và gắn bó mật thiết đối với cách mạng Việt Nam, V.I. Lênin – người thầy của giai cấp vô sản thế giới, có vị trí đặc biệt quan trọng, ông không chỉ là người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo cả ba bộ phận cấu thành chủ  nghĩa Mác: Triết học, Kinh tế chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học; làm cho chủ nghĩa Mác trở nên “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất”, là “vũ khí lý luận sắc bén”, “công cụ nhận thức vĩ đại” để nhận thức và cải tạo thế giới mà còn là người sáng lập Đảng Cộng sản Nga và Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 vĩ đại, mở ta thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.

Xuyên tạc V.I. Lênin, phủ nhận học thuyết của ông, coi ông là nguyên nhân sâu sa gây nên thảm cảnh “nồi da nấu thịt” ở các nước SNG (Liên Xô cũ) và cuộc chiến Nga – Ucraina là những sai lầm cần phải lên án, bác bỏ. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và phản động hy vọng đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta: chủ nghĩa Mác – Lênin, hạ thấp uy tín của Bác Hồ – Người Cộng sản Việt Nam đầu tiên đến gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản và có công lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, gieo hạt giống cộng sản trên quê hương, đất nước mình và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam…

Không dừng lại ở đó, chúng đã từ “chuyện bé xé ra to”, chĩa mũi nhọn vào công kích, bài xích, xuyên tạc thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của V.I. Lênin, hạ thấp uy tín, tầm ảnh hưởng của tấm gương mẫu mực về đấu tranh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trước sự tấn công từ nhiều phía của “các loại kẻ thù” chống phá chủ nghĩa Mác. Qua đó, xóa bỏ quan niệm về chủ nghĩa Lênin và mối quan hệ giữa chủ nghĩa Lênin với chủ nghĩa Mác; phủ nhận luận thuyết: chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và cách mạng vô sản trên phạm vị toàn thế giới.

 Với ý nghĩa đó, chúng muốn chia tách, làm thoát ly toàn bộ học thuyết của Lênin khỏi chủ nghĩa Mác; xóa bỏ vai trò, sự hợp thành di sản lý luận của chủ nghĩa Lênin với di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, cắt đứt sợi chỉ đỏ xuyên suốt, sự kết nối biện chứng giữa chủ nghĩa Lênin với chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin, nhấn mạnh những hạn chế của chủ nghĩa Lênin. Theo đó, mưu đồ sâu sa, thủ đoạn độc địa của các thế lực thù địch là phủ nhận quá trình lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, đến gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận giá trị và ý nghĩa sự kiện Người tiếp cận và trở thành người mác xít chân chính từ khi đọc được bản Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa cùng các các tác phẩm khác của V.I. Lênin.

 Với thái độ, hành vi xuyên tạc lịch sử, một số kẻ xấu đã coi V.I. Lênin “chỉ là nhà chính trị”, “nhà dân tộc chủ nghĩa”, “chép lại chủ nghĩa Mác”, đối lập V.I. Lênin với C. Mác, học thuyết của V.I. Lênin với học thuyết của C. Mác và cho rằng chính V.I. Lênin và Hồ Chí Minh là nguyên nhân làm chậm bước tiến của Việt Nam; chủ nghĩa Mác – Lênin đã cũ, lỗi thời, không còn giá trị, cần phải loại bỏ; hoặc là “Cụ Hồ không có quan hệ gì với Lênin”, “tư tưởng Hồ Chí Minh là hỗn tạp ý thức hệ phương Đông – phương Tây”, v.v.. Đây là điều bịa đặt hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, cần phải phê phán, kiên quyết bác bỏ.

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cực lực phản đối mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin dưới mọi chiêu thức. Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò, vị thế, giá trị và ý nghĩa của V.I. Lênin, của chủ nghĩa Lênin, coi chủ nghĩa Lênin là một cấu phần đặc biệt quan trọng trong chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng nhất quán khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tưởng, kim chủ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Qua đó, nghiêm túc học tập tấm gương mẫu mực của V.I. Lênin về đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác cũng như phong cách vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của cách mạng.

V.I. Lênin là tấm gương mẫu mực về tinh thần kiên quyết đấu tranh phê phán, bác bỏ mọi quan điểm sai trái, thù địch và mọi tổ chức chính trị phản động để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác có sức sống mãnh liệt trên cơ sở bổ sung, phát triển những tri thức lý luận mới. Bằng thực tiễn lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lênin đã chúng minh chủ nghĩa Mác không phải là hệ thống lý luận khép kín, giáo điều; cũng không phải là những tín điều cứng nhắc, bất động mà là nền tảng tư tưởng, kinh chỉ nam cho hành động cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Bônsêvích (b) Nga và thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thắng lợi của Liên Xô trong chiến thanh thế giới lần thứ hai đã cứu loài người thoát khỏi thảm họa diệt chủng của chủ nghĩa phát xít cũng như sự ra đời của hệ thống nước xã hội chủ nghĩa thế giới là minh chứng thuyết phục nhất đã bác bỏ mọi sự bịa đặt, giả dối của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động.

Sau 74 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã đạt được những thành tựu to lớn, trở thành thành trì phe xã hội chủ nghĩa, là quốc gia rộng lớn chiếm một phần sáu diện tích thế giới, có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Thế nhưng, do những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị của ban lãnh đạo Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô đã sụp đổ; thành quả cách mạng bằng xương máu của nhân dân và chiến sĩ đã không còn. Song, không vì thế mà một số người đã vội cho rằng “chủ nghĩa Mác – Lênin đã cáo chung, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ”; cũng không nên cho rằng tiến trình lịch sử đã bị đảo lộn, lịch sử bị “ngưng đọng”, “thụt lùi”. Những tổn thất từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết ở Đông Âu và Liên Xô chỉ có thể làm chậm bước tiến của nhân loại trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến Nga – Ucraina ngày 24-2-2022. Nhưng nó không thể và không bao giờ xoá bỏ được cống hiến của V.I. Lênin và lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại cũng như mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Điều đó đã cảnh tỉnh, cảnh báo một số người tin theo và a dua với các thế lực phản động về sự ca ngợi, tán dương chủ nghĩa tư bản – chế độ áp bức, bóc lột người bởi chủ nghĩa tư bản không phải là tương lại của nhân loại tiến bộ.

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu và cuộc chiến giữa Nga – Ucraina đem lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc: Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng đều phải tỉnh táo, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản, luôn độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo, thường xuyên đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. tiếp tục đổi mới nhận thức, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không được phép coi thường.

Sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cũng như cuộc chiến giữa Nga – Ucraina là minh chứng khẳng định rằng, nếu “chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”, đã vội vàng phán xét, kết luận đúng sai, chắc chắn sẽ rơi vào sai lầm đáng tiếc. Điều đó cho thấy rằng, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, người cộng sản đều phải bình tĩnh, sáng suốt, phải nhìn nhận thấu đáo mọi vấn đề, phải hiểu đúng và thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc mácxít – lêninnít. Đó là điều giải thích vì sao trước những khó khăn, thách thức của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một đều khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Những kẻ cố tình xuyên tạc, bôi nhọ V.I. Lênin, chống đối chủ nghĩa Mác – Lênin là những kẻ không có trái tim, không có danh dự và liêm xỉ, vi phạm pháp lý, đạo lý sẽ bị toà án lương tâm và pháp luật Việt Nam trừng trị đích đáng./.

 LÊ ANH TUẤN

Không giấy bút nào tả hết được sự vất vả, hy sinh của các cán bộ y tế

 


Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, đặc biệt trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, sự đóng góp của đội ngũ cán bộ y tế nói chung, đội ngũ cán bộ khoa học y tế nói riêng là không thể đong đếm được, không giấy bút nào tả hết được sự vất vả, hy sinh của các cán bộ y tế.

Nhân kỷ niệm 67 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2), GS.TS Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội đã thăm và chúc mừng các Thầy thuốc, Nhà Khoa học và nhân viên y tế tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Hà Nội).

Phát biểu với các Thầy thuốc, Nhà khoa học, cán bộ và nhân viên ngành Y tế nói chung, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức nói riêng, GS.TS Vương Đình Huệ – Chủ tịch Quốc hội thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi tới các Thầy thuốc, Nhà khoa học và  toàn thể đội ngũ bác sĩ, cán bộ và nhân viên y tế trên cả nước những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp, chúc sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân luôn đạt được những kết quả tốt đẹp.

Qua báo cáo của Bộ Y tế, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, lịch sử phát triển ngành y tế, đội ngũ thầy thuốc – nhà khoa học gắn liền với sự phát triển của đất nước và đánh giá cao kết quả đạt được của ngành trong 67 năm qua. Các chỉ số sức khỏe của Nhân dân đã được nâng lên rõ rệt, tốt hơn so với nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

Chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 – chiến dịch tiêm chủng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đã được triển khai thành công. Đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trong 10 năm qua đã có 106 nhà giáo nhà khoa học ngành y tế được phong học hàm giáo sư, 801 phó giáo sư.

Chủ tịch Quốc hội cũng ghi nhận những kết quả nổi bật từ nghiên cứu khoa học, chuyển giao và áp dụng vào thực tiễn, đã đưa trình độ khoa học công nghệ lĩnh vực y tế Việt Nam tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trên thế giới.

Đặc biệt trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 đã kéo dài hơn 2 năm nay, sự đóng góp của đội ngũ cán bộ y tế nói chung, đội ngũ cán bộ khoa học y tế nói riêng là không thể đong đếm được, không giấy bút nào tả hết được sự vất vả, hy sinh của các cán bộ y tế, vì sức khỏe nhân dân.

Nhấn mạnh “nghề y là một nghề đặc biệt, nhân lực y tế phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức; cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt”, Chủ tịch Quốc hội mong muốn hệ thống nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực y tế, mà đầu mối là Bộ Y tế, phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa để triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, từng bước đưa mô hình đào tạo nguồn nhân lực y tế hội nhập quốc tế, có chất lượng cao; đồng thời thúc đẩy phát triển các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học công nghệ chuyên sâu trong lĩnh vực y tế.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng, có tính cấp bách hiện nay của Bộ Y tế là tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi), Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi), Luật Dược (sửa đổi) nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế để ngành y tế ngày càng phát triển bền vững, lành mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe Nhân dân.

Tặng quà và chúc mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, Chủ tịch Quốc hội mong muốn đội ngũ cán bộ y tế tiếp tục đóng góp thiết thực và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người dân, luôn mãi xứng đáng với sự tin yêu và kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.