Nhận diện một
cách đầy đủ và đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với âm mưu, ý đồ, thủ
đoạn của các đối tượng chống phá, xuyên tạc là góp phần nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, ý thức tự đề kháng, củng cố niềm tin của mỗi người cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân; qua đó, khơi dậy sự chung sức, đồng lòng của
toàn dân tộc nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
Cơ sở khoa học
và thực tiễn của “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”
Một trong những
điểm mới và quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII là lần đầu tiên Đảng ta xác
định “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(1). Đây
cũng là bước đột phá trong tư duy của Đảng về sức mạnh nội sinh và phương thức
phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Ấy vậy mà các thế lực thù địch và phần
tử cơ hội chính trị, phản động, chống đối, lại đang rêu rao, xuyên tạc rằng, đó
là quan điểm duy tâm chủ quan, một khẩu hiệu trống rỗng, phi thực tế, phản khoa
học,… hòng thực hiện mưu đồ xuyên tạc, bóp méo đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng ta.
Chúng lý sự rằng,
“khát vọng” là yếu tố tinh thần, là mặt tinh thần của đời sống xã hội; do đó,
khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần đề cập và nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII
(từ chủ đề Đại hội, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển,
nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược) thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối
hóa yếu tố tinh thần và lấy nó làm cơ sở, nền tảng cho sự phát triển kinh tế –
xã hội đất nước, nên rõ ràng là một quan điểm duy tâm chủ quan; đi ngược lại lý
luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trái với chủ nghĩa Mác – Lê-nin (?!).
Xét bản chất, dựa
trên lý luận của triết học Mác – Lê-nin về tính độc lập tương đối của ý thức và
vai trò, sức mạnh to lớn của tinh thần con người, chúng ta có đủ luận cứ, luận
chứng khoa học để phản bác các luận điệu sai trái, nhưng hết sức tinh vi, xảo
quyệt nói trên của các thế lực thù địch. Đó là, tuy khẳng định vai trò quyết định
của vật chất đối với ý thức, nhưng các nhà kinh điển mác-xít cũng đồng thời nhấn
mạnh, ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động, sáng tạo
nên có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, V.I. Lê-nin khẳng định:
“Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế
giới khách quan”(2). Đặc biệt, ý thức tiến bộ, cách mạng một khi được
giáo dục, khơi dậy và phát huy đúng cách ở mỗi cá nhân sẽ trở thành sức mạnh
tinh thần vĩ đại trong cải tạo xã hội. Đúng như C. Mác đã nói: “Vũ khí của sự
phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(3).
Điều đó có
nghĩa, ý thức, tư tưởng hay tinh thần của con người, trong đó có các khát vọng
chính đáng, hợp lý, hoàn toàn không phải là sản phẩm tiêu cực, thụ động, mà
luôn chứa đựng sức mạnh tiềm tàng rất to lớn. Và để hiện thực hóa sức mạnh ấy,
để biến nó thành sức mạnh vật chất, đòi hỏi phải biết thường xuyên khơi dậy, bồi
đắp và chuyển hóa nó thành các hành động cụ thể, các phong trào xã hội thiết thực.
Như C. Mác đã viết: “tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết.
Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”(4) và
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý…
Bổn phận của chúng ta là… phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo,
làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc
yêu nước, công việc kháng chiến”(5). Vì vậy, trong mỗi thời kỳ, ở mỗi
giai đoạn lịch sử của dân tộc, giá trị và sức mạnh của tinh thần yêu nước cũng
như khát vọng phát triển đất nước luôn phụ thuộc rất lớn vào khả năng khơi dậy,
phát huy và hiện thực hóa của các thế hệ.
Thực tiễn cũng
đã chứng minh, trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự hình thành,
phát triển của mỗi quốc gia – dân tộc phụ thuộc trước hết vào khát vọng sống, tồn
tại và vươn lên của cộng đồng dân tộc đó. Không hiếm dân tộc hay nền văn minh
trên thế giới bị đồng hóa, bị tiêu diệt trong quá trình biến thiên lâu dài của
lịch sử, khi không có sự đoàn kết toàn dân tộc, nhất là thiếu khát vọng độc lập,
tự cường và phát triển. Đối với dân tộc Việt Nam, yếu tố này lại càng nổi bật
và biểu hiện sinh động hơn hết. Như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt
Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, không ngừng được đắp bồi và phát
triển, tinh thần yêu nước cùng với khát vọng phát triển đất nước là những giá
trị tiêu biểu, tạo nên sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Chính khát vọng
cháy bỏng phải giành, bảo vệ cho được độc lập, tự do, thống nhất đất nước đã tạo
nên sức mạnh phi thường để dân tộc ta trường tồn và phát triển. Trong lịch sử,
ông cha ta đã đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của các đế quốc ngoại
bang, giữ vững nền độc lập dân tộc không phải chủ yếu bằng tiềm lực quân sự, bằng
sức mạnh vật chất, mà chủ yếu là bằng sức mạnh quật khởi vĩ đại của sự đoàn kết,
của khát vọng về chủ quyền quốc gia.
Một mặt,
với những lý luận sắc bén và thực tiễn sinh động, dựa trên cơ sở khoa học và hiện
thực đầy đủ, cùng với tư duy biện chứng, tầm nhìn chiến lược và nhạy bén chính
trị, sự kiên định và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới,
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã rất đúng, rất trúng khi xác định một cách mạch
lạc, đầy sức thuyết phục về khát vọng phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đó
là động lực quan trọng, nguồn năng lượng nội sinh to lớn để đưa đất nước ta bước
vào giai đoạn phát triển, “cất cánh” trong kỷ nguyên mới. Văn kiện Đại hội XIII
hoàn toàn không tuyệt đối hóa vai trò động lực của khát vọng phát triển đất nước,
mà xác định rất rõ đây là một trong những động lực để tạo thành “hợp lực” cho đổi
mới, phát triển và hội nhập; là động lực tinh thần chứ không phải động lực vật
chất; là động lực thúc đẩy chứ không thể thay thế vai trò cơ sở, nền tảng quyết
định của yếu tố kinh tế, vật chất. Do đó, trước những luận điệu cho rằng quan
điểm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện
Đại hội XIII là duy tâm chủ quan, mỗi người có sự hiểu biết và tỉnh táo, khách
quan đều thấy rõ đó chỉ là một sự non kém về kiến thức triết học và tri thức lịch
sử,… hoặc là những ý đồ chính trị hết sức tinh vi và thâm độc, một dạng của thuật
ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung, vốn không được bất kỳ khoa học nào đánh giá
cao.
Mặt khác,
Văn kiện Đại hội XIII đã được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và các
tổ chức chính trị – xã hội, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; được góp ý, chỉnh
lý, sửa chữa nhiều lần (riêng Báo cáo chính trị là khoảng 30 lần); được nhiều
nhà khoa học, nhà lý luận nghiên cứu, biên soạn một cách cẩn trọng, nghiêm túc,
cân nhắc từng từ, từng câu, từng chữ. Văn kiện được đánh giá có quá trình chuẩn
bị “rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn
thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp. Quán triệt sâu sắc
nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn,giữa kiên định và đổi mới, giữa kế
thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi,
dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân”,
hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc”(6). Văn kiện
có văn phong trong sáng, súc tích, giản dị, từ ngữ chắt lọc, dễ nhớ, dễ thực hiện;
mỗi nhận định, đánh giá, nội dung bổ sung đều có căn cứ xác đáng, nhất là những
luận điểm mới như vấn đề “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc”. Tất cả những điều đó chứng minh tính khoa học, khách quan của những đánh
giá, các mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện Đại hội XIII.
Thế nhưng, các
thế lực thù địch đã, đang lớn tiếng cho rằng, đó chẳng qua chỉ là một lời hiệu
triệu, một ước vọng hão huyền, vì nó chỉ có ý nghĩa hô hào, mang tính chất khẩu
hiệu thuần túy, trong khi không xác định được những chủ trương, không định vị
rõ lộ trình, không đề ra biện pháp cụ thể để hiện thực hóa khát vọng đó. Vì
tính quy chụp, xảo ngôn đó, những luận điệu này đã thể hiện một “tư duy thiển cận”,
phiến diện, siêu hình và về thực chất, chỉ là một cái nhìn đầy định kiến, “sặc
mùi” cơ hội chính trị và phản khoa học.
Bởi lẽ, Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng không những xác định rõ các chủ trương, chiến lược, sách
lược đúng đắn, mà còn đề xuất phương hướng và hệ thống những giải pháp mang
tính đồng bộ, khoa học, khả thi cao để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất
nước. Điều này không chỉ thể hiện sự sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng, mà
còn là cơ sở khoa học, là bằng chứng hùng hồn để phản bác lại những quan điểm
sai trái, cố tình bóp méo, xuyên tạc Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ta.
Quyết tâm hiện
thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của dân tộc ta
trong thời gian tới
Một là, “khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” đã được Văn kiện Đại hội XIII thể
chế hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể, với lộ
trình và bước đi phù hợp với điều kiện thực tế.
Có thể nói,
“khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” vừa là động lực, vừa là mục
tiêu chiến lược, cao đẹp, xuyên suốt và lâu dài của Đảng, của cả dân tộc ta. Tất
nhiên, việc thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đó không phải là công việc
giản đơn, có thể hoàn thành trong “một sớm một chiều”. Nhưng quán triệt nguyên
tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn, kế thừa và bổ sung cho phù hợp với những
biến đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước và có sự nghiên cứu, tham
khảo kinh nghiệm của các nước; đồng thời, trên cơ sở phân tích, dự báo kỹ lưỡng
những thời cơ, tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên
ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong,… Văn kiện Đại hội XIII đã xác định
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không chỉ được thể hiện, thực
hiện trong nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng, mà còn “hướng tới những dấu mốc phát
triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới: Đến năm
2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang
phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm
2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(7). Và điều
này cũng nhất quán với khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
trong phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XII: Nói Đại hội
XIII không phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021 – 2026) mà phải có tầm
nhìn chiến lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng tới tương lai.
Như vậy, việc
thể chế hóa, cụ thể hóa “khát vọng phát triển đất nước” thành các mục tiêu, chỉ
tiêu cụ thể, chương trình hành động, kế hoạch, lộ trình thực hiện mang tính tổng
thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta cũng như những diễn
biến của tình hình thế giới,… là một trong những phương cách khả thi nhất để
góp phần hiện thực hóa khát vọng này. Nếu mục tiêu, chỉ tiêu của từng thời kỳ,
từng giai đoạn được thực hiện thắng lợi, thì sẽ trực tiếp góp phần hoàn thành mục
tiêu chiến lược, tức là hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đã được xác
định.
Hai là,
Văn kiện Đại hội XIII đã vạch ra định hướng và xác định hệ giải pháp cơ bản để
hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Đưa đất nước
phát triển phồn vinh, hạnh phúc là cả một quá trình cải biến xã hội mang tính
toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có
sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển
theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa sự chuyển hóa về lượng
và biến đổi về chất,… của hệ thống các nhân tố tham gia. Nói cách khác, đó là sự
nghiệp cách mạng to lớn, mặc dù rất vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách,
nhiều cam go, phức tạp. Vì vậy, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này,
Văn kiện Đại hội XIII xác định phải huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Theo đó, một
mặt, Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ, cần tăng cường tuyên truyền, giác ngộ,
truyền cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong các tầng lớp
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, với sự sinh động, phong phú, thiết thực và hiệu
quả bằng các hình thức, phương pháp khác nhau. Trọng tâm là “Tập trung khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần
đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc”(8).
Chú trọng hun đúc tình cảm và bầu nhiệt huyết cách mạng, khơi dậy lòng tự hào,
tự tôn dân tộc, trách nhiệm công dân và nghĩa đồng bào của quần chúng nhân dân.
Làm cho khát vọng phát triển đất nước trở thành niềm vinh dự, tự hào, phương
châm, lẽ sống và hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người dân Việt
Nam. Khơi dậy ở đội ngũ thanh niên Việt Nam tinh thần chủ động, dấn thân, xung
kích, sáng tạo và lòng khát khao cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Đảng
ta nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài
bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã
hội”(9).
Mặt khác,
Văn kiện Đại hội XIII còn nhấn mạnh tới việc cần chủ động tạo lập các yếu tố,
điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi làm cơ sở, động lực để khơi dậy và hiện
thực hóa khát vọng phát triển đất nước ở mỗi con người Việt Nam. Bởi một điều dễ
nhận thấy là, một khi mỗi người dân đã hiểu rõ được những gì họ cần làm để thể
hiện lòng yêu nước, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước; thì
khi đó, cần tạo những điều kiện, cơ chế, chính sách và môi trường thuận lợi cho
mỗi người dân thể hiện lòng yêu nước của mình. Tức là, phải “Xây dựng các cơ chế,
chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”(10).
Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, từng bước hoàn thiện các chính sách
kinh tế – xã hội phù hợp, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của các tầng lớp nhân dân. Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh,
phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát
triển xã hội, bảo đảm tốt tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc
sống, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của người dân; giải quyết
tốt vấn đề việc làm, thu nhập của người lao động.
Bên cạnh đó, cần
thực hành triệt để dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực chất quyền làm chủ của
nhân dân, coi trọng “ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo
nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân
dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11).
Phát huy tính tích cực chính trị – xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của
nhân dân trong tham gia vào các công việc chung của đất nước. Thực hiện đầy đủ,
triệt để và thực chất phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đẩy lùi nạn tham nhũng, giải quyết hài hòa mối
quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân tộc,
đoàn kết tôn giáo; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước. Tạo lập và phát huy sức mạnh
đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, cụ
thể hóa phương thức biểu hiện “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc” – một biện pháp mang tính đột phá của Văn kiện Đại hội XIII.
Trên thực tế,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không phải là cái gì xa vời,
khó hiểu, khó định lượng, bởi Văn kiện Đại hội XIII đã cụ thể hóa thành những
phương thức biểu hiện rõ ràng, gắn với yêu cầu về hành động, việc làm thiết thực
của mỗi người dân Việt Nam. Trong đó, từ góc độ kinh tế, khát vọng
phát triển đất nước được thể hiện chủ yếu ở tinh thần vươn lên xóa bỏ cái “biệt
danh” nước nghèo, chậm phát triển. Mặc dù công cuộc đổi mới đất nước sau hơn 35
năm của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,phát
triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới; tuy nhiên, “dù đạt
được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế”(12). Vì vậy, Văn kiện Đại
hội XIII đã chỉ rõ, khát vọng phát triển đất nước hiện nay chính là ý thức lao
động hăng say và sáng tạo, nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng của mỗi người
dân; nhất là sự cố gắng phấn đấu của thanh niên nước nhà “trong học tập, lao động
sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp”(13).
Từ góc độ
chính trị – xã hội, một mặt, khát vọng phát triển đất nước là
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tinh thần lạc quan về
tương lai tươi sáng của đất nước, tiền đồ tốt đẹp của dân tộc; khắc phục triệt
để tâm lý tự ti, nhược tiểu. Kiên định, kiên trì, nhất quán mục tiêu, lý tưởng
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao ý thức tự giác và gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu. Đó còn là tinh thần đoàn kết, kiên quyết đấu tranh chống lại những
thói hư tật xấu, cái bảo thủ trì trệ trong tư duy, suy nghĩ và cách làm; nghiêm
khắc lên án, đấu tranh quyết liệt với các hiện tượng tiêu cực xã hội, nạn quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, bảo vệ sự trong sạch của bộ máy đảng và nhà nước.
Mặt khác,
hiện nay hội nhập quốc tế đã trở thành một vấn đề có tính quy luật, là một tất
yếu khách quan đối với mọi quốc gia – dân tộc; do đó, để phát triển đất nước, tất
yếu chúng ta phải mở cửa, hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, hội nhập quốc tế luôn
chứa đựng cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau. Vì thế,
để tận dụng thời cơ, phát huy những yếu tố thuận lợi; khắc phục khó khăn, vượt
qua thách thức, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải kiên định nguyên tắc chiến
lược đi đôi với thực hiện sách lược mềm dẻo, linh hoạt trong hội nhập quốc tế;
lấy phương châm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường làm chủ đạo; đồng thời, phát
huy tối đa các nhân tố bên ngoài có lợi, tích cực, chủ động mở rộng hợp tác quốc
tế. Chúng ta hội nhập với thế giới để phát triển nhưng không để bị “hòa tan”,
không “đánh mất mình”; trái lại, phải giữ vững nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(14).
Từ góc độ
khoa học và tri thức, đã như một chân lý – muốn đi xa, hành trang phải đầy
đủ, vì vậy, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước rất cần những con
người có tri thức, đủ năng lực và trình độ để thực hiện khát vọng đó. Đặc biệt,
để phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tích cực chủ động hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,…
càng không thể thiếu vai trò to lớn, động lực then chốt của khoa học, công nghệ
và tri thức. Do vậy, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ, thế hệ trẻ nước nhà hiện
nay cần thể hiện khát vọng phát triển đất nước của mình bằng hành động xung
kích nơi “trận tuyến” tri thức, khoa học và công nghệ; dám nghĩ, dám làm, năng
động, nhạy bén và sáng tạo, “làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại”(15);
đi tắt, đón đầu trong nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ của khoa học, công nghệ
vào sản xuất, đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, giá thành hạ.
Văn kiện Đại hội
XIII và quan điểm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”
trong Văn kiện càng khẳng định tính đúng đắn, khoa học và cách mạng bao nhiêu
thì lại càng vấp phải sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch bấy
nhiêu. Việc các thế lực thù địch, phản động ra sức công kích, bài bác và phủ nhận
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ càng chứng tỏ tính đúng đắn và giá trị của
đường lối, chủ trương mà Đảng đã hoạch định, được nhân dân kỳ vọng, tin tưởng, ủng
hộ, đồng tình./.