Đại biểu Phạm
Trọng Nhân cho biết, kể từ khi xâm nhập thị trường Việt Nam, Netfix đã phổ biến
ít nhất 3 phim có nội dung vi phạm chủ quyền lãnh thổ đất nước như “Gửi thời
thanh xuân ấm áp của chúng ta” đến “Bà Ngoại trưởng” và gần đây nhất là “Bill
Gates”.
Nói về các nội
dung trong dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) đang được trình Quốc hội xem
xét, đóng góp ý kiến, đại biểu Phạm Trọng Nhân, đoàn Bình Dương cho rằng, chỉ
vài ngày nữa dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) sẽ được thông qua, song những người
làm điện ảnh chân chính, tâm huyết vẫn còn đó không ít tâm tư để tiếp tục chuyển
tải những thông điệp về cuộc sống qua từng lăng kính, thước phim.
Bên cạnh việc
tiếp thêm những chế định để điện ảnh nước nhà bay cao, vươn xa thì dự luật này
phải đảm đương sứ mệnh là công cụ bảo vệ nền tảng tinh thần của xã hội cũng như
những sự thật thiêng liêng trước những thông tin xuyên tạc lịch sử, những nội
dung xấu, độc, đồi trụy mà nhiều nền tảng xuyên biên giới phổ biến trên không
gian mạng đang ngang nhiên tấn công vào tâm thức người xem.
Tuy nhiên, dự
thảo lại xây dựng cơ chế hậu kiểm đối với phổ biến phim trên không gian mạng mà
điển hình là các nền tảng xuyên biên giới tại điểm a khoản 2 Điều 18, điểm b
khoản 2 Điều 21 và khoản 1 Điều 27. Trong khi việc để các nền tảng này tự do đi
lại trên mặt trận văn hóa thời gian qua đã gây nên những tổn thương không hề nhỏ
đến đời sống tinh thần của xã hội.
Đại biểu Phạm
Trọng Nhân dẫn chứng như kể từ khi xâm nhập thị trường Việt Nam, Netfix đã phổ
biến ít nhất 3 phim có nội dung vi phạm chủ quyền lãnh thổ đất nước như “Gửi thời
thanh xuân ấm áp của chúng ta” đến “Bà Ngoại trưởng” và gần đây nhất là “Bill
Gates”.
“Như vậy, từ
câu chuyện trong đời sống thực với giàn khoan HD 981 thì nay chủ quyền lãnh thổ
đã và đang đối diện với một hình thái khác mà việc xuyên tạc lịch sử đang ký
sinh lên nghệ thuật thứ bảy và những thành tựu khoa học công nghệ. Rõ ràng vị
khách này không hề có thiện chí cũng như thiếu sự tôn trọng chủ nhà và dĩ nhiên
không phải vô tình để vi phạm hết lần này đến lần khác. Hệ lụy của nó sẽ đi đến
đâu nếu tiếp tục để môn Lịch sử là môn tự chọn của học sinh ở lứa tuổi đã bắt đầu
có những tư duy và nhận thức độc lập.
Gỡ bỏ nội dung
sai phạm là một việc làm không nhiều ý nghĩa vì người xem đã kịp tải xuống để
đăng tải trên các nền tảng khác. Do đó, mặc dù báo cáo giải trình đã cố gắng lý
giải nhưng chưa thể thỏa mãn với những gì đã và đang diễn ra trên không gian mạng”,
đại biểu Phạm Trọng Nhân nói.
Theo ông Nhân,
điều đáng nói là các nội dung độc hại đang từng ngày lần mò len lỏi, cài cắm
vào tâm thức người xem, mà tệ hại nhất là giới trẻ khi smartphone đã quá phổ biến
và việc xem các nội dung trên các nền tảng này mọi lúc, mọi nơi. Không dừng lại
ở đó, các nền tảng xuyên biên giới này còn kiếm lợi bất chính khi doanh thu
hàng ngàn tỷ đồng từ cung cấp dịch vụ nhưng chưa đóng một đồng tiền thuế tại
nhiều nước sở tại trong đó có Việt Nam. Khi chất vấn tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội
khóa XIV, nhiều ý kiến đại biểu cũng như phần trả lời của Bộ trưởng Bộ Thông
tin và Truyền thông đã minh chứng và làm rõ hơn vấn đề trên.
“Khởi nguồn của
nghệ thuật thứ 7 là vị nhân sinh, việc lợi dụng những thành tựu nhân loại, nó
đã bị thao túng để phục vụ động cơ vì tiền bạc thay vì hoán cải con người và xã
hội trên những nền tảng của chân, thiện, mỹ. Với những khuất tất, khuyết tật vô
cùng độc hại cho xã hội như trên, nhưng phổ biến phim trên không gian mạng
không phải trải qua quy trình chặt chẽ để được cấp phép phân loại phim như hệ
thống rạp hay các điểm chiếu phim công cộng thì liệu đã đảm bảo nguyên tắc, đảm
bảo sự bình đẳng cạnh tranh công bằng của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
điện ảnh và phát triển công nghiệp điện ảnh mà ngay từ đầu dự thảo đã đặt ra.
Vì sao cùng một nền tảng chính sách nhưng lại có sự phân biệt đối xử, tiền kiểm
và hậu kiểm trong khi cùng thực hiện hành vi phổ biến phim”, ông Nhân nêu
vấn đề.
Đại biểu đoàn
Bình Dương cũng cho rằng, với những vi phạm có chủ ý và có tính chất hệ thống hết
lần này đến lần khác thì ở góc độ quản lý vẫn còn đó những trăn trở. Phải chăng
hậu kiểm đã “nhờn thuốc” khi các vi phạm cứ lặp đi lặp lại và đồng thời cho thấy
một khoảng trống pháp lý trong bảo vệ chủ quyền văn hóa và tâm thức của mọi người
trước hành động xâm lăng được bao bọc bởi vẻ ngoài gắn mác nghệ thuật thứ bảy.
Vấn đề đáng nói chính là dự thảo vẫn chế định cơ chế hậu kiểm thì liệu đã đánh
giá thận trọng những nguy hại khôn lường từ nền tảng xuyên biên giới hay chưa?
Giải thích điều
này, tờ trình tại kỳ họp thứ hai có nêu “cần xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt về mặt
kỹ thuật, về nhân lực và khả năng thực hiện kiểm soát, thẩm định nội dung
phim”. Với khối lượng đăng tải và truy cập phim hiện nay chưa có giải pháp hiệu
quả nhằm kiểm soát khối lượng thông tin này. Tuy nhiên, theo đại biểu Phạm Trọng
Nhân, việc lấy những khó khăn về nhân lực để lý giải cho quy định hậu kiểm đối
với phổ biến phim trên không gian mạng, trong khi các công đoạn tiền kiểm hiện
nay đều được số hóa và được thực hiện trên các phần mềm chuyên dụng mà các cơ
quan thông tấn báo chí quốc gia hiện đang duyệt từng chương trình truyền hình
nước ngoài, bao gồm hàng chục ngàn bộ phim mỗi năm trên hàng chục kênh truyền
hình phát sóng 24/7 vào Việt Nam liệu đã đủ thuyết phục hay chưa?
“Giữa nỗ lực phải
thể chế hóa cùng trách nhiệm của ngành và những lý giải hậu kiểm như trên của tờ
trình thì đâu sẽ là giải pháp để bảo vệ ngọn đèn văn hóa trong hành trình soi
đường cho quốc dân đi”, ông Nhân đặt câu hỏi.
Đại biểu Phạm
Trọng Nhân lo ngại, nếu như các nền tảng Google, Facebook, Tiktok âm thầm
theo dõi, định vị, thay đổi tâm thức người dùng từ khi gõ phím, tìm kiếm đến việc
ghi âm các cuộc thoại, phân tích thông tin chứa đựng trong đó đến các thao tác
tưởng chừng vô hại như những like, share, thả tim trên các dòng trạng thái thì
việc cung cấp các dịch vụ phim ảnh qua các nền tảng xuyên biên giới cũng là một
cách thức tấn công vào tâm thức con người bằng những tư tưởng sai lệch về giá
trị văn hóa được lồng vào những câu chuyện tưởng chừng chỉ mang tính chất giải
trí.
Do đó, đại biểu
Nhân đề nghị Ban soạn thảo, cơ quan thẩm tra và Quốc hội phải cân nhắc kỹ lưỡng
điểm a khoản 2 Điều 18; điểm b khoản 2 Điều 21 và khoản 1 Điều 27 về hậu kiểm đối
với việc phổ biến phim trên không gian mạng. Cần giải pháp để các nền tảng
xuyên biên giới không có bất kỳ cơ hội nào xâm lấn bờ cõi tư tưởng văn hóa người
xem nói riêng và hàng chục triệu người nói chung./.
0 nhận xét: