Tại Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã tán thành Tờ trình của Bộ
Chính trị về chủ trương thành lập ban chỉ đạo (BCĐ) cấp tỉnh về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực (PCTN,TC). Lợi dụng sự kiện trên, các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc để chống phá
Đảng, Nhà nước ta.
Nhận diện luận
điệu sai trái
Trên nhiều
trang mạng xã hội của các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ,
các hãng truyền thông hải ngoại chống phá Việt Nam như RFA, VOA, RFI… phát tán
nhiều bài viết, hình ảnh xuyên tạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XIII), trong đó tập trung đả phá Đề án thành lập BCĐ cấp tỉnh về
PCTN,TC.
Các thế lực thù
địch quy kết công tác PCTN “chỉ là mị dân”, ngụy biện “tham nhũng là sản phẩm của
chế độ, thể chế chính trị ở Việt Nam”, quy kết “tham nhũng do chế độ độc đảng cầm
quyền”! Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, chủ trương thành lập BCĐ
PCTN,TC cấp tỉnh là “không cần thiết, chỉ tốn tiền của dân”, cho rằng việc làm
này là “giả tạo”, vẽ ra câu chuyện “ta đánh ta”, “cộng sản thì ai cũng tham
nhũng”… Mục đích các bài viết nhằm quy kết tham nhũng là “bản chất của chế độ”,
từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải đa nguyên,
đa đảng, phải “xã hội dân sự”…
Đây thực chất
là trò chống phá kiểu “bình mới rượu cũ” của số đối tượng thù địch, phản động,
cơ hội chính trị. Số này cố gắng vẽ ra bức tranh tối màu về công tác PCTN của
Việt Nam, phớt lờ thực tế hiệu quả công tác PCTN, phủ nhận mọi cố gắng, nỗ lực
của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc đẩy lùi vấn nạn tham nhũng;
tìm cách gieo rắc tâm lý bất an, gây ra sự hoài nghi về các chủ trương, quyết
sách của Đảng về PCTN, TC, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, lấy
cớ kích động gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự đối lập,
bất ổn từ bên trong.
Tham nhũng
là vấn nạn của nhiều quốc gia
Thực chất, tham
nhũng là hiện tượng xã hội đã xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, nó tồn tại
trong mọi chế độ chính trị khác nhau, gắn liền với nhà nước và quyền lực. Bản
chất của tham nhũng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế và
cho dù chế độ chính trị nào, chủ nghĩa xã hội hay tư bản chủ nghĩa, chế độ một
đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền thì vẫn có nạn tham nhũng. Một số
ví dụ điển hình về tham nhũng ở các nước có chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên
chính trị như: Vụ Watergate – vụ bê bối về quyền lực chính trị để trục lợi từ
1972 – 1974 của Tổng thống Mỹ Richard Nixơn. Trước nguy cơ bị Quốc hội phế truất
ngày 9/8/1974, Tổng thống Mỹ Richard Nixơn buộc phải từ chức, đây là Tổng thống
đầu tiên và duy nhất trong lịch sử nước Mỹ phải từ chức khi đang là Tổng thống
nhiệm kỳ thứ hai.
Tổng thống
Philippines Joseph Estrad (1998 – 2001) phạm tội tham nhũng phải ngồi tù chung
thân; Thủ tướng Ukraine (1996 – 1997) Pavlo Lazarenko đã biển thủ 200 triệu USD
từ ngân sách nhà nước (tương đương nửa triệu USD/ngày trong thời gian làm Tổng
thống) phải bỏ trốn sang Hoa Kỳ; Tổng thống Hàn Quốc Park Geun – hye bị Quốc hội
Hàn Quốc phế truất vào tháng 12/2016 do bị buộc tội tham nhũng, dính líu đến vụ
bê bối chính trị dùng quan hệ cá nhân để tăng ảnh hưởng và trục lợi tài chính…
Tham nhũng là một
vấn đề nan giải, một căn bệnh nhức nhối với những biến dạng rất phức tạp, đang
hoành hành trên nhiều lĩnh vực, gây ra những hậu quả tiêu cực ở các quốc gia với
chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, đấu tranh bài trừ tham nhũng được các nước rất
quan tâm, thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, trên nhiều phương diện như
pháp luật, hành chính, chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa, lối sống… Trung Quốc
ban hành các văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm
chính trong cán bộ Đảng và Nhà nước.
Trong khi đó,
Luật Chống tham nhũng (năm 1989) của Singapore cho phép tòa án tịch thu tài sản
của công chức nếu họ không giải thích được nguồn gốc tài sản đó. Thái Lan yêu cầu
các cơ quan chức năng phải xem xét tất cả đơn thư tố giác của người dân về tham
nhũng, dù có ký tên hay không ký tên. Một số nước như Colombia, Brazil… còn thiết
lập các đường dây nóng để thu nhận tin tức về tội phạm nói chung và tham nhũng
nói riêng.
Không thể phủ
nhận kết quả PCTN, TC ở Việt Nam
Ở nước ta, cuộc
chiến PCTN,TC đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt,
bài bản, đi vào chiều sâu với quan điểm “không có vùng cấm” và đã đạt nhiều kết
quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt. Thành quả đó để lại dấu ấn tốt, tạo
hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên,
nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận.
Theo số liệu của
BCĐ Trung ương về PCTN tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống
tham nhũng, từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán
bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng
vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Chỉ tính riêng năm 2021, cơ quan có thẩm quyền
đã kỷ luật 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 132 so với năm
2020), trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
Đây là những con số biết nói, khẳng định công tác đấu tranh PCTN “không có vùng
cấm”, “không có ngoại lệ”.
Chính những
thành quả trong công tác PCTN đã góp phần loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái
hóa, biến chất, làm trong sạch đội ngũ, nhằm xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Việc
xử lý nghiêm minh có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe phòng ngừa chung, qua đó củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ; khẳng định vị thế, uy tín của Đảng,
đất nước ta trên trường quốc tế. Điều này cũng bác bỏ những luận điệu xảo trá,
suy diễn của các lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Thành lập
BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC là cần thiết, quan trọng
Năm 2006, BCĐ
Trung ương về PCTN được thành lập và được xác định là cơ quan trực thuộc Chính
phủ, do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, có chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra,
đôn đốc công tác PCTN trong phạm vi cả nước. Năm 2007, các BCĐ PCTN cấp tỉnh được
thành lập theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN
(năm 2007) và Nghị quyết số 294A/2007/UBTVQH12, ngày 27/9/2007 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động của BCĐ Trung ương về PCTN trong giai đoạn
này còn một số hạn chế, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Do vậy, Hội nghị
Trung ương 5 khóa XI (năm 2012), đã quyết định tổ chức lại BCĐ về PCTN, chuyển
đổi mô hình BCĐ trực thuộc Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu sang mô
hình BCĐ trực thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư đứng đầu. Hội nghị cũng quyết định
không tổ chức BCĐ tỉnh, thành phố về PCTN.
Tỉnh ủy, thành ủy
trực tiếp lãnh đạo công tác PCTN và có trách nhiệm phối hợp với BCĐ Trung ương
về PCTN khi có vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Mục đích của
sự thay đổi này nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác
đấu tranh PCTN, tăng cường tính độc lập tương đối của BCĐ với các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp trong công tác đấu tranh PCTN.
Mô hình BCĐ
Trung ương trực tiếp do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã chứng minh hiệu quả rõ rệt
trong công tác PCTN. Điều đó thể hiện rất rõ ở nhiệm kỳ khóa XII, XIII khi số
lượng vụ, việc tham nhũng, kinh tế được phát hiện, xử lý tăng lên rất nhiều. Thực
tiễn hoạt động của BCĐ Trung ương là bài học kinh nghiệm quý giá để công tác
PCTN,TC ở các cấp, ngành, địa phương học hỏi, làm theo.
Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác trong chỉ đạo PCTN được cọ xát
qua thực tiễn. Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo đi vào nền nếp, bài bản, khoa học.
Các thành viên, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Sau khi BCĐ Trung ương về PCTN hoạt động
thể hiện được tính hiệu quả, ưu việt thì có đủ lộ trình, thời gian và sự chuẩn
bị nguồn lực phù hợp để thành lập BCĐ cấp tỉnh đủ mạnh, có thực quyền, trở
thành “cánh tay nối dài” của BCĐ Trung ương, phục vụ đắc lực cho hoạt động
PCTN, tiêu cực ở địa phương.
Tham nhũng hiện
vẫn diễn biến rất phức tạp, được xem là một trong các nguy cơ làm chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Mặc dù kết quả PCTN,TC
thời gian qua đạt được là rất quan trọng song công tác PCTN,TC ở nhiều ngành, địa
phương chưa có sự chuyển biến rõ nét; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền
hà cho người dân, doanh nghiệp trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được
ngăn chặn có hiệu quả; vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trong đấu
tranh PCTN,TC.
Một số cấp ủy,
tổ chức đảng quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN,TC tại địa phương đã bộc
lộ bất cập, nhất là trong chỉ đạo phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham
nhũng, tiêu cực, do đó nhiều tỉnh ủy, thành ủy đã đề xuất, kiến nghị thành lập
BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC. Những tồn tại, hạn chế này do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau, trong đó có nguyên nhân từ tổ chức bộ máy các cơ
quan chức năng PCTN,TC chưa thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương;
cơ chế chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan chức năng PCTN,TC ở địa phương chưa được
tập trung, thống nhất.
Như vậy, xét
trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,
tiêu cực là chủ trương quan trọng, cần thiết, thể hiện rõ tinh thần triển khai
thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương “trên dưới đồng
lòng, dọc ngang thông suốt!”. Đây là những cơ sở để phản bác luận điệu sai
trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.
0 nhận xét: