Là một quốc
gia đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, nên Việt Nam luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp
với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình. Đồng thời, Việt Nam cũng đòi hỏi
các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Điều này cũng
được khẳng định rõ trong chính sách quốc phòng Việt Nam – đó là nền quốc phòng
mang tính chất chính nghĩa, hoà bình và tự vệ, với chủ trương không tham gia
liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước
ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác;
không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, để
thực hiện âm mưu đen tối, dã tâm thâm độc, nhằm chống phá cách mạng nước ta tới
cùng, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không từ bất cứ
thủ đoạn nào để xuyên tạc, bôi nhọ chính sách quốc phòng Việt Nam. Chúng lợi dụng
các điểm mới trong đường lối, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà
nước ta, nhất là trong Luật Quốc phòng 2018, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam
2019 để đưa ra bình luận, quy chụp thiếu căn cứ về nguyên tắc “bốn không”; tư vấn,
góp ý, kiến nghị Việt Nam nên thiết lập, tham gia các liên minh quân sự nhằm
tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ đất nước. Chúng cho rằng, chính sách
quốc phòng Việt Nam đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình hiện
nay; chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế” là Việt Nam đã “từ bỏ dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói
tay, chân mình”, “tự cô lập mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn
trong bảo vệ Tổ quốc, không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại xu thế
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống,
quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cho
cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt,
trước những diễn biến phức tạp, căng thẳng trên Biển Đông, trực tiếp tác động đến
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo, các thế lực thù địch, phản động
ra sức xuyên tạc, lớn tiếng cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt
Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc… Từ đó, chúng kích động, hô hào, kêu gọi Đảng, Nhà nước cần
dựa vào nước ngoài, nhất là các nước lớn và tham gia liên minh quân sự để bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ biển, đảo và lợi ích đất nước.
Mục đích chống
phá của các thế lực thù địch là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục
tiêu, lý tưởng, mất phương hướng chính trị; xuyên tạc đường lối, chủ trương của
Đảng về công tác quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận
lòng dân”; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tạo ra sự nghi ngờ, gây
tâm lý hoang mang, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo,
cách thức giải quyết sự việc liên quan đến quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước
ta. Đồng thời, truyền bá tư tưởng, lối sống phương Tây vào Quân đội, Công an,
làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, mất cảnh giác, từng bước tác động làm phai nhạt
mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân
dân, tính dân tộc và phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.
Sự thật phía
sau sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động đối với chính
sách quốc phòng Việt Nam đó là: Thứ nhất, đây chính là mưu đồ
tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là Quân
đội, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội
chủ nghĩa, làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Thứ hai, xét
về bản chất, mục đích chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản
động là không hề thay đổi, nhưng âm mưu, thủ đoạn, sách lược ngày càng tinh vi,
xảo quyệt và trắng trợn hơn. Thứ ba, dưới chiêu bài “thư ngỏ”, “góp
ý, hiến kế” xuất phát từ “lòng yêu nước, vì chủ quyền dân tộc”, góp phần cho
“tiếng nói lương tri của con dân đất Việt”, các thế lực thù địch, phản động
đang tìm mọi cách dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần
đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc, tiến tới thay đổi chế độ chính trị, xã hội. Thứ
tư, chúng kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong nhân dân, lừa bịp, dẫn
dắt dư luận, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm sút
lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Hiện nay,
tình hình thế giớivà khu vực đang diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự
báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và gay gắt hơn. Nhiều nước
tăng ngân sách quốc phòng, đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực
quân sự với những thế hệ vũ khí mới, các loại hình tác chiến mới dẫn đến chạy
đua vũ trang ngày càng quyết liệt hơn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền
biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn, nhất là trên Biển Đông,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến xung đột. Trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục
đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”, kích động ly khai, bạo loạn lật đổ;
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ
trang nhằm chống phá nước ta ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện… đặt
ra cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc yêu cầu mới khó khăn, phức tạp hơn.
Quan điểm nhất
quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta là: Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng
dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản
lý, điều hành thống nhất của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng
cường nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế
giới. Điều 4, Luật Quốc phòng 2018 đã chỉ rõ: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng
phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập,
mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh
quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự
hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng
có lợi”[1].
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 tiếp tục khẳng định: “Chính sách Quốc phòng
của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh
giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật
pháp quốc tế,…”[2].
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phương châm: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung
đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp
với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển”[3].
Đồng thời: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ
nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình,
ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự,
kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”[4].
Thực tiễn cho
thấy, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đắn chính sách quốc phòng đã đề ra với
đường lối quốc phòng, quân sự độc lập, tự chủ, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc,
tạo sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đồng thời, tích cực thực hiện cam kết trở
thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy
trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, cả lý luận và thực
tiễn đều khẳng định nhất quán quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quốc phòng phù hợp với truyền thống lịch
sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, có tính nhân văn sâu sắc; được công khai,
minh bạch nhằm tăng cường sự hiểu biết, xây dựng lòng tin của các quốc gia với
Việt Nam. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam hiện nay.
Theo đó, để
nhận diện rõ, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc chính sách quốc
phòng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau:
Một
là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, làm rõ sự cần thiết, tính
đúng đắn, khoa học của chính sách quốc phòng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc
Đấu tranh làm
thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng Việt Nam
là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị.
Các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền với
hình thức, phương pháp đa dạng, linh hoạt, phù hợp với thực tiễn đất nước và bối
cảnh quốc tế nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết, cách tiếp cận đúng cho nhân
dân, kiều bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế về chính sách quốc phòng Việt
Nam. Luận giải, làm rõ cơ sở khoa học, nội dung cơ bản, khẳng định chính sách
quốc phòng Việt Nam mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ, được xây dựng
trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua đó, tiếp tục
củng cố vững chắc lòng tin của các quốc gia về đất nước, con người Việt Nam yêu
chuộng hòa bình. Đồng thời, tích cực, chủ động tuyên truyền, cung cấp thông tin
chính thống về lĩnh vực quốc phòng, an ninh đến quần chúng nhân dân một cách kịp
thời, chính xác, khách quan, trung thực, định hướng dư luận, phân biệt rõ đúng
sai, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tạo sức đề kháng, tự miễn dịch trước
những thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch. Quốc phòng và an ninh là
lĩnh vực đặc thù, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia, dân tộc.
Tuy nhiên, trong thời đại của internet, một sự kiện xảy ra chỉ trong thời gian
rất ngắn đã lan khắp toàn cầu. Vì vậy, càng chủ động giữ vững trận địa thông
tin, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời và minh bạch, càng ngăn chặn được
các luồng thông tin thất thiệt, thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự thật, hoặc
suy diễn tiêu cực, gây hoang mang, lo lắng, bán tín bán nghi trong xã hội. Tất
nhiên, trừ các thông tin bí mật quân sự, bí mật quốc gia, các thông tin khác,
nhất là về các sự kiện lớn, đột xuất, phức tạp, nhạy cảm, có thể gây bất ổn xã
hội, thì luôn cần có thông tin chính thống, kịp thời từ cơ quan chức năng, từ
người có thẩm quyền phát ngôn cho báo chí, truyền thông, đó chính là sự định hướng
dư luận hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, tập trung xây dựng lực lượng đấu tranh phản
bác những thông tin bịa đặt, xuyên tạc về quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập
trung vào đội ngũ nhà báo, nhà nghiên cứu, thông tin viên, tuyên truyền viên
trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đây là lực lượng đưa đường lối, quan điểm,
chủ trương, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước đến với quần
chúng nhanh và hiệu quả nhất, là những người trực tiếp góp phần đập tan thông
tin và luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Do vậy, cần xây dựng lực lượng này có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, có khả năng luận chiến thuyết
phục, có nhiệt huyết, dũng khí, quyết tâm đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ; chú trọng nâng tầm lý luận sắc sảo, kinh nghiệm cho họ, bảo đảm để lực lượng
này là nòng cốt, xung kích trong đấu tranh, phản bác những thông tin bịa đặt,
xuyên tạc về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng.
Hai
là, tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới
Đây là nguyên
tắc, nhân tố quyết định sự thành bại, mất còn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc ở nước ta đã được khẳng định nhất quán trong đường lối, quan điểm của Đảng:
“Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự
quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”[5].
Do đó, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng luôn lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đề cao cảnh
giác, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng,
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch. Nhà nước thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong Hiến
pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc. Cần xác định rõ cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan, cán bộ chuyên trách quốc phòng ở các ban, bộ, ngành; trách nhiệm phối hợp
của từng cấp, ngành, địa phương trong các hoạt động liên quan đến quốc phòng. Đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước trong
lĩnh vực quốc phòng; xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quốc phòng có phẩm
chất, năng lực tham mưu trong thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh. Đặc biệt, phải: “Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng,
công tác chính trị trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong
sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”[6].
Ba là,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tăng cường sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc
Thực tiễn lịch
sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định: sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của “thế trận lòng dân” vững
chắc. Phát huy sức mạnh nội lực, tự lực, tự cường là yếu tố quyết định tạo ra
nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc. Thực tế
trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã chứng minh: Việt Nam giành được thắng lợi to lớn chính là nhờ thực hiện đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ
trang, chứ không phải xuất phát từ việc tham gia các liên minh quân sự. Đó là sức
mạnh của độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại. Vì vậy, hiện nay để làm thất bại âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch, phải: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh;
xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân
và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân”[7].
Đồng thời: “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng
lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh,
tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ… Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu
và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển”[8].
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để thực hiện thắng lợi chính sách quốc
phòng Việt Nam.
Bốn
là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; tăng cường công tác
đối ngoại quốc phòng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định phát triển
đất nước
Đây là xu thế
tất yếu trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Để
giữ cho “trong ấm, ngoài êm”, thêm bạn, bớt thù, cùng với xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, cần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ đối ngoại. Đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với chiến lược đối
ngoại linh hoạt, mềm dẻo, có nguyên tắc, tăng đối tác, giảm đối tượng, tạo thế
đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các
đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột,
đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp
tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc
gia – dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế
đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các
thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Nỗ lực
phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Xử lý tốt quan hệ với các đối
tác, không để bị động, bất ngờ.
Hiện nay,
cùng với thực thi chính sách quốc phòng “bốn không”, Việt Nam cũng chủ trương
thực hiện “bốn tránh”: tránh xung đột về quân sự; tránh bị cô lập về kinh tế;
tránh bị cô lập về ngoại giao; tránh bị lệ thuộc về chính trị. Đây là hệ thống
đồng bộ các quan điểm, chính sách chiến lược của Đảng, Nhà nước ta về quốc
phòng và đối ngoại nhằm tạo lập và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
0 nhận xét: