15/6/22

Phê phán các quan điểm sai trái về chính sách quốc phòng ở Việt Nam hiện nay

 

 Là một quốc gia đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, nên Việt Nam luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình. Đồng thời, Việt Nam cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Điều này cũng được khẳng định rõ trong chính sách quốc phòng Việt Nam – đó là nền quốc phòng mang tính chất chính nghĩa, hoà bình và tự vệ, với chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Tuy nhiên, để thực hiện âm mưu đen tối, dã tâm thâm độc, nhằm chống phá cách mạng nước ta tới cùng, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không từ bất cứ thủ đoạn nào để xuyên tạc, bôi nhọ chính sách quốc phòng Việt Nam. Chúng lợi dụng các điểm mới trong đường lối, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong Luật Quốc phòng 2018, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 để đưa ra bình luận, quy chụp thiếu căn cứ về nguyên tắc “bốn không”; tư vấn, góp ý, kiến nghị Việt Nam nên thiết lập, tham gia các liên minh quân sự nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ đất nước. Chúng cho rằng, chính sách quốc phòng Việt Nam đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình hiện nay; chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là Việt Nam đã “từ bỏ dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói tay, chân mình”, “tự cô lập mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn trong bảo vệ Tổ quốc, không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp, căng thẳng trên Biển Đông, trực tiếp tác động đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc, lớn tiếng cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Từ đó, chúng kích động, hô hào, kêu gọi Đảng, Nhà nước cần dựa vào nước ngoài, nhất là các nước lớn và tham gia liên minh quân sự để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo và lợi ích đất nước.

Mục đích chống phá của các thế lực thù địch là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất phương hướng chính trị; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về công tác quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân”; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tạo ra sự nghi ngờ, gây tâm lý hoang mang, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo, cách thức giải quyết sự việc liên quan đến quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, truyền bá tư tưởng, lối sống phương Tây vào Quân đội, Công an, làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, mất cảnh giác, từng bước tác động làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.

Sự thật phía sau sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động đối với chính sách quốc phòng Việt Nam đó là: Thứ nhất, đây chính là mưu đồ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Thứ hai, xét về bản chất, mục đích chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động là không hề thay đổi, nhưng âm mưu, thủ đoạn, sách lược ngày càng tinh vi, xảo quyệt và trắng trợn hơn. Thứ ba, dưới chiêu bài “thư ngỏ”, “góp ý, hiến kế” xuất phát từ “lòng yêu nước, vì chủ quyền dân tộc”, góp phần cho “tiếng nói lương tri của con dân đất Việt”, các thế lực thù địch, phản động đang tìm mọi cách dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc, tiến tới thay đổi chế độ chính trị, xã hội. Thứ tư, chúng kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong nhân dân, lừa bịp, dẫn dắt dư luận, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.

Hiện nay, tình hình thế giớivà khu vực đang diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và gay gắt hơn. Nhiều nước tăng ngân sách quốc phòng, đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực quân sự với những thế hệ vũ khí mới, các loại hình tác chiến mới dẫn đến chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt hơn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn, nhất là trên Biển Đông, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến xung đột. Trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”, kích động ly khai, bạo loạn lật đổ; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhằm chống phá nước ta ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện… đặt ra cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc yêu cầu mới khó khăn, phức tạp hơn.

Quan điểm nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta là: Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Điều 4, Luật Quốc phòng 2018 đã chỉ rõ: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”[1]. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 tiếp tục khẳng định: “Chính sách Quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế,…”[2]. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phương châm: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”[3]. Đồng thời: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[4].

Thực tiễn cho thấy, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đắn chính sách quốc phòng đã đề ra với đường lối quốc phòng, quân sự độc lập, tự chủ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đồng thời, tích cực thực hiện cam kết trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định nhất quán quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quốc phòng phù hợp với truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, có tính nhân văn sâu sắc; được công khai, minh bạch nhằm tăng cường sự hiểu biết, xây dựng lòng tin của các quốc gia với Việt Nam. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

Theo đó, để nhận diện rõ, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau:

Một là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, làm rõ sự cần thiết, tính đúng đắn, khoa học của chính sách quốc phòng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng Việt Nam là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền với hình thức, phương pháp đa dạng, linh hoạt, phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết, cách tiếp cận đúng cho nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế về chính sách quốc phòng Việt Nam. Luận giải, làm rõ cơ sở khoa học, nội dung cơ bản, khẳng định chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ, được xây dựng trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua đó, tiếp tục củng cố vững chắc lòng tin của các quốc gia về đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Đồng thời, tích cực, chủ động tuyên truyền, cung cấp thông tin chính thống về lĩnh vực quốc phòng, an ninh đến quần chúng nhân dân một cách kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực, định hướng dư luận, phân biệt rõ đúng sai, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tạo sức đề kháng, tự miễn dịch trước những thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch. Quốc phòng và an ninh là lĩnh vực đặc thù, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, trong thời đại của internet, một sự kiện xảy ra chỉ trong thời gian rất ngắn đã lan khắp toàn cầu. Vì vậy, càng chủ động giữ vững trận địa thông tin, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời và minh bạch, càng ngăn chặn được các luồng thông tin thất thiệt, thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự thật, hoặc suy diễn tiêu cực, gây hoang mang, lo lắng, bán tín bán nghi trong xã hội. Tất nhiên, trừ các thông tin bí mật quân sự, bí mật quốc gia, các thông tin khác, nhất là về các sự kiện lớn, đột xuất, phức tạp, nhạy cảm, có thể gây bất ổn xã hội, thì luôn cần có thông tin chính thống, kịp thời từ cơ quan chức năng, từ người có thẩm quyền phát ngôn cho báo chí, truyền thông, đó chính là sự định hướng dư luận hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, tập trung xây dựng lực lượng đấu tranh phản bác những thông tin bịa đặt, xuyên tạc về quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung vào đội ngũ nhà báo, nhà nghiên cứu, thông tin viên, tuyên truyền viên trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đây là lực lượng đưa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước đến với quần chúng nhanh và hiệu quả nhất, là những người trực tiếp góp phần đập tan thông tin và luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Do vậy, cần xây dựng lực lượng này có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, có khả năng luận chiến thuyết phục, có nhiệt huyết, dũng khí, quyết tâm đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; chú trọng nâng tầm lý luận sắc sảo, kinh nghiệm cho họ, bảo đảm để lực lượng này là nòng cốt, xung kích trong đấu tranh, phản bác những thông tin bịa đặt, xuyên tạc về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng.

Hai là, tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Đây là nguyên tắc, nhân tố quyết định sự thành bại, mất còn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta đã được khẳng định nhất quán trong đường lối, quan điểm của Đảng: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”[5]. Do đó, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng luôn lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Cần xác định rõ cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, cán bộ chuyên trách quốc phòng ở các ban, bộ, ngành; trách nhiệm phối hợp của từng cấp, ngành, địa phương trong các hoạt động liên quan đến quốc phòng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng; xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quốc phòng có phẩm chất, năng lực tham mưu trong thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đặc biệt, phải: “Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”[6].

Ba là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc

Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định: sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của “thế trận lòng dân” vững chắc. Phát huy sức mạnh nội lực, tự lực, tự cường là yếu tố quyết định tạo ra nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc. Thực tế trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh: Việt Nam giành được thắng lợi to lớn chính là nhờ thực hiện đường lối quân sự độc lập, tự chủ, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang, chứ không phải xuất phát từ việc tham gia các liên minh quân sự. Đó là sức mạnh của độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Vì vậy, hiện nay để làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phải: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”[7]. Đồng thời: “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ… Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển”[8]. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để thực hiện thắng lợi chính sách quốc phòng Việt Nam.

Bốn là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; tăng cường công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định phát triển đất nước 

Đây là xu thế tất yếu trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Để giữ cho “trong ấm, ngoài êm”, thêm bạn, bớt thù, cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với chiến lược đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, có nguyên tắc, tăng đối tác, giảm đối tượng, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Xử lý tốt quan hệ với các đối tác, không để bị động, bất ngờ.

Hiện nay, cùng với thực thi chính sách quốc phòng “bốn không”, Việt Nam cũng chủ trương thực hiện “bốn tránh”: tránh xung đột về quân sự; tránh bị cô lập về kinh tế; tránh bị cô lập về ngoại giao; tránh bị lệ thuộc về chính trị. Đây là hệ thống đồng bộ các quan điểm, chính sách chiến lược của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng và đối ngoại nhằm tạo lập và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

 

0 nhận xét: