Để nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng nói chung trước yêu cầu, nhiệm vụ mới,
trước hết phải giữ vững biên cương tư tưởng, làm sáng tỏ và thống nhất nhận thức
các vấn đề cơ bản và cấp bách của bản thân chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; vận dụng vào quá trình nhận thức và giải quyết hàng loạt nhiệm vụ
quan trọng hiện nay của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội XIII
đã khẳng định, Đảng ta tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt
Nam trong từng giai đoạn.
Công tác tư
tưởng có sứ mệnh trọng yếu đối với sự nghiệp cách mạng và bao gồm các hợp phần
rất hữu cơ với nhau. Trước hết, đó là công tác lý luận có nhiệm vụ giáo dục lý
luận cách mạng và khoa học cho cán bộ, đảng viên, nhân dân; cung cấp luận chứng
cho quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Thứ hai là công tác tuyên truyền có nhiệm vụ thông tin, phổ biến quan
điểm, đường lối, chủ trương, chiến lược, chính sách của Đảng, Nhà nước tới cán
bộ, đảng viên, nhân dân; vận động nhân dân tham gia các hoạt động xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Thứ ba là công tác cổ động có nhiệm vụ khích lệ tinh thần, ý chí,
niềm tin cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân.
Để nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng nói chung trước yêu cầu, nhiệm vụ mới,
trước hết phải giữ vững biên cương tư tưởng, làm sáng tỏ và thống nhất nhận thức
các vấn đề cơ bản và cấp bách của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
vận dụng vào quá trình nhận thức và giải quyết hàng loạt nhiệm vụ quan trọng hiện
nay của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết khoa học nêu ra các quy luật chung nhất của
sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; là một học thuyết cách mạng vạch
ra con đường, chiến lược và sách lược đấu tranh để giai cấp công nhân lãnh đạo
quần chúng cách mạng lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh gồm ba bộ phận:
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kinh tế chính trị và chủ nghĩa
xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh sức sống trước thử thách của
thời gian nhờ có các giá trị nền tảng bền vững:
Phương pháp
biện chứng duy vật là phương pháp tổng quát của triết học Mác – Lênin; là sự kết
tinh toàn bộ tinh hoa trong lịch sử phát triển của phương pháp biện chứng từ thời
cổ đại, đồng thời, được bổ sung bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào công nhân, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới từ giữa thế kỷ XIX.
Phương pháp
biện chứng duy vật dựa trên phép biện chứng duy vật – khoa học về những quy luật
vận động và phát triển phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy; là học thuyết tổng
quát nhất về sự phát triển. Dựa trên các nguyên lý, các quy luật cơ bản và các
cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, phương pháp biện chứng duy vật là
phương pháp xem xét, nhận thức sự vật, hiện tượng một cách khách quan, toàn diện
trong sự phát triển, gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và thực tiễn nhằm tìm ra
bản chất, quy luật phát triển của sự vật.
Quan niệm duy
vật về lịch sử là một trong những phát minh vĩ đại của C. Mác. Với phát minh
này, C. Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử
thế giới. Quan niệm duy vật về lịch sử xem xét xã hội như một chỉnh thế, có quá
trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của các hình thái kinh tế – xã hội
theo các quy luật khách quan. Nó thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống
xã hội, điều kiên sinh hoạt vật chất quyết định điều kiện sinh hoạt tinh thần,
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng là nhân tố quyết
định đối với chính trị.
Tuy nhiên,
quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác khác với chủ nghĩa duy kinh tế, chủ
nghĩa duy vật tầm thường chỉ nhấn mạnh một chiều yếu tố kinh tế, yếu tố vật chất
mà coi nhẹ yếu tố tinh thần, yếu tố chính trị. Trong khi khẳng định vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội, kinh tế đối với chính trị, quan niệm duy vật lịch sử nhấn mạnh sự
tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, đời sống tinh thần đối
với đời sống vật chất, chính trị đối với kinh tế …
Học thuyết
hình thái kinh tế – xã hội do chủ nghĩa Mác – Lênin xây dựng là hòn đá tảng
trong quan niệm duy vật lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội là cơ sở
khoa học để giải thích tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của các quốc
gia, dân tộc. Xã hội loài người nói chung phải trải qua các hình thái kinh tế –
xã hội từ thấp đến cao, diễn ra một cách lịch sử – tự nhiên do những mâu thuẫn
trong lòng của mỗi hình thái kinh tế – xã hội quy định. Đó là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,v.v.
Những mâu thuẫn
này được giải quyết sẽ dẫn đến hình thái kinh tế – xã hội cũ mất đi, hình thái
kinh tế – xã hội mới ra đời thay thế, làm cho xã hội phát triển lên một trình độ
mới cao hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả các quốc gia dân tộc
đều lần lượt, nhất loạt phải trải qua đầy đủ các nấc thang phát triển đó. Do vậy,
có sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, dân tộc.
Học thuyết
giá trị thặng dư là một trong những phát minh vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Học thuyết đã bóc trần bí mật của phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa;
giải thích triệt để quan hệ giữa tư bản và lao động; tìm ra cơ chế, động lực tồn
tại và phát triển của xã hội tư bản và giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng
dư. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, chi
phối tất cả các xã hội tư bản, tất cả các giai đoạn của chủ nghĩa tư bản; đã chỉ
rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội
hóa ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn đối
với tư liệu sản xuất, biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp công
nhân và những người lao động làm thuê với giai cấp tư sản.
Học thuyết về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đóng góp to lớn của chủ nghĩa Mác –
Lênin, soi sáng vai trò lịch sử của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản. Sứ mệnh đó bắt nguồn từ chỗ giai cấp công
nhân là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản
xuất tiên tiến, là một giai cấp cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, có sứ mệnh
lịch sử là giải phóng cho giai cấp mình đồng thời giải phóng cho nhân dân lao động
và toàn nhân loại, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Để thực hiện
thành công sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân phải có chính đảng cách mạng
chân chính lãnh đạo, đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân.
Ngày nay, những thay đổi của đội ngũ công nhân về số lượng, chất lượng, cơ cấu,
điều kiện sống và trình độ học vấn, nghề nghiệp…không hề làm mất đi bản chất
cách mạng, không hề hạ thấp sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
Với những giá
trị nền tảng, bền vững nêu trên, chủ nghĩa Mác – Lênin đã tạo ra một lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học, luận chứng một cách thuyết phục con đường hiện thực, chủ
thể lãnh đạo, lực lượng tiến hành, chiến lược, sách lược…dẫn dắt giai cấp công
nhân và quần chúng cách mạng đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
chế độ xã hội mới không còn bóc lột, áp bức, nô dịch. Hơn 170 năm qua, các thế
lực tư bản, đế quốc và phản động đã từng hoảng loạn nhìn nhận lý luận mác xít
như “bóng ma ám ảnh châu Âu”; càng hoảng loạn hơn khi “bóng ma” ấy trở thành hiện
thực ở nước Nga năm 1917 và sau đó trở thành hệ thống thế giới hùng hậu, không
chỉ đối trọng với chủ nghĩa tư bản, mà còn quyết định nhiều vấn đề lớn của thế
giới trong nhiều thập kỷ của thế kỷ XX. Ngày nay, sự hoảng loạn ấy vẫn còn, pha
lẫn sự hằn học không che dấu trước sự phục hồi, đổi mới và phát triển của chủ
nghĩa xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; là hệ thống các quan điểm về những
vấn đề cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; là sản phẩm của sự kết hợp khoa học, nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
chân chính, truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa của dân tộc, thực tiễn sinh
động của cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại,
đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lê nin; là tài sản tinh thần to lớn của dân tộc ta;
đã, đang và sẽ mãi là ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp; nghiên cứu quan
điểm, học thuyết; nghiên cứu nhân cách, phong cách, tấm gương; nghiên cứu hoạt
động cách mạng phong phú của Người – Anh hùng Giải phóng Dân tộc Việt Nam và
Danh nhân Văn hóa thế giới.
Đối với công
cuộc đổi mới vì Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và
nhân dân ta tiến hành từ năm 1986, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt cả
về lý luận và thực tiễn. Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Hồ Chí Minh đề cập
từ sớm trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927). Sau đó, được Người nhắc lại,
làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là: “Sửa đổi lối làm việc”
(1947), “Đời sống mới” (1947), “Dân vận” (1949), đặc biệt trong bản Di chúc
thiêng liêng (1965 – 1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc Người đi
xa. Từ các các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm
có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới.
Theo Hồ Chí
Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường kách mệnh”,
Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(1).
Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
thắng lợi, Người nhấn mạnh đó “là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ,
hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(2). Triết lý đổi mới,
chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. “Chân lý là
cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân tức là không phải chân lý”(3); “Việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(4).
Đổi mới là sự
nghiệp lâu dài, phức tạp, gia khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn
những bước đi thích hợp. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là
tương đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái
cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn,
do vậy phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, thực hiện chắc chắn.
Sức mạnh của
đổi mới là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Công cuộc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân”(5); để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn
dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”(6);
phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần: cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của
các nước dân chủ.
Đảng là linh
hồn của đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ ngĩa Mác – Lê nin, căn cứ vào
thực tiễn của Việt Nam và thế giới, bổ sung những tư liệu, vấn đề mà các nhà
kinh điển ở thời mình không thể có được (7) để đề ra và thực
hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Hồ Chí Minh chỉ dạy: Thế giới ngày ngày đổi
mới, xã hội ngày một phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy, cán bộ, đảng
viên không thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành động cũng
phải phát triển”, “phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(8).
Với Hồ Chí
Minh, tư tưởng đổi mới là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lê nin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải
quyết những nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; đạo dức đổi mới là phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết,
trước hết, đổi mới vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ,
giàu mạnh; phong cách đổi mới là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu
quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho dân, cho
nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi
mới Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn
công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội
XIII của Đảng vừa qua đã tổng kết một số bài học kinh nghiệm. Trước hết, đó là
“kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh”.
Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI qua các cột mốc 2025, 2030 và 2045, toàn Đảng, toàn dân có mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị chiến lược hàng đầu là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”,
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Mục tiêu, nhiệm
vụ to lớn, nặng nề nêu trên cần được thực hiện thắng lợi trong bối cảnh thế giới
đang và tiếp tục có nhiều chuyển động sâu rộng, tạo ra sự thay đổi mang tính bước
ngoặt trong sản xuất vật chất và đời sống tinh thần của toàn nhân loại. Trên thế
giới ngày nay, cạnh tranh giữa các quốc gia dân tộc về cơ hội, điều kiện và các
nguồn lực phát triển sẽ ngày càng gay gắt, quyết liệt. Đặt trong bối cảnh này,
công cuộc đổi mới của chúng ta không thể tiếp tục lộ trình theo kiểu “kinh nghiệm
chủ nghĩa”, mà nhất thiết phải được một lý luận tiền phong soi sáng. Lý luận tiền
phong đó chính là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được toàn Đảng,
toàn dân kiên định quán triệt, nhận thức sâu sắc và vận dụng, phát triển sáng tạo.
3. Vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh
đồng bộ, toàn diện công cuộc đổi mới, cần dành trọng tâm nghiên cứu một số vấn
đề lý luận và thực tiễn cơ bản, cấp bách.
Đánh giá đúng
đắn, kịp thời những biến động của cục diện thế giới và xác định rõ hơn diện mạo
của cục diện khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Cục diện châu Á – Thái Bình
Dương vừa mang nét chung của cục diện đa cực, đa trung tâm vừa có khác biệt, đặc
thù. Với sự phát triển mạnh mẽ sau hơn 4 thập niên cải cách, mở cửa, Trung Quốc
ngày nay trở thành nước lớn đặc sắc bước vào thời đại mới, có sức mạnh như một
siêu cường ở châu Á – Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược một cách ngày càng
lợi hại với siêu cường Mỹ, vốn từ thuở lập quốc đến nay, về cơ bản, là một quốc
gia gắn kết với châu Âu – Đại Tây Dương. Hai nước lớn này sẽ đẩy mạnh tập hợp lực
lượng, trước hết là với các chủ thể lớn (ASEAN, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc,
Ôxtrâylia…) nhằm giành lợi thế trong các cơ cấu quyền lực tại khu vực. Không nhận
biết kịp thời và sáng tỏ sự thống nhất và khác biệt giữa cục diện thế giới và cục
diện khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ làm suy giảm đáng kể năng lực ứng phó
trong một thế giới đa dạng, phức tạp hiện nay.
Nghiên cứu, cụ
thể hóa định hướng do Đại hội XIII nêu ra: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương sẽ còn gay gắt kéo dài và làm gia tăng các nguy cơ
xung đột, chiến tranh. Trong bối cảnh này, Việt Nam rất cần có kế sách phòng
tránh chiến tranh ngay trong thời bình, từ lúc nước chưa nguy. Đây không chỉ là
nhiệm vụ quốc phòng, mà phải được nhận thức và hành động ở chiều sâu và tầm cao
văn hóa, giáo dục và phát triển kinh tế – xã hội. Cha ông ta trong lịch sử nhờ
thường xuyên “thái bình tu trí lực”, biết sửa mình trị nước, khoan thứ sức dân,
mở mang sản nghiệp, tôn tạo nền tảng quốc gia, khéo léo bang giao, sẵn sàng
phương lược… nên vững bền Đại Việt “vạn cổ thử giang san”, như lời phú của danh
tướng Trần Quang Khải. Kế sách giữ nước ngay trong việc dựng nước, từ sớm, từ
xa hết sức quý báu này cần được nghiên cứu tổng kết công phu, bài bản để quốc
gia dân tộc Việt Nam ngày nay tồn tại trong hòa bình, ổn định, hợp tác và phát
triển.
Nghiên cứu, cụ
thể hóa chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng
của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Công nghiệp hóa là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả
nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên trình độ mới.
Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò tạo ra
điều kiện, tiền đề vật chất – kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi thời
kỳ lịch sử và trong từng bối cảnh kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa có nội dung
và con đường thực hiện cụ thể. Đối với Việt Nam trước kia, đó là quá trình công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được
xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để tiến lên
trình độ công nghiệp hóa ngày càng cao, mỗi quốc gia nhất thiết phải có một số
ngành sản xuất công nghiệp nền tảng. Trên thực tế, không ít quốc gia đã không
dành sự quan tâm ở tầm chiến lược cho các ngành công nghiệp này. Hệ quả trực tiếp
là nền sản xuất công nghiệp quốc gia về cơ bản dừng lại ở trình độ lắp ráp và
các ngành công nghiệp phụ trợ cũng không thể phát triển, nền công nghiệp quốc
gia ngày càng lép vế trước các cơ sở công nghiệp FDI.
Với tính cách
thị trường thương mại, thế giới ngày nay đã bị các hiệp định thương mại tự do,
nhất là các hiệp định thế hệ mới biến thành một thị trường liên hoàn, thống nhất.
Ở đó, đã và sẽ nhanh chóng mất đi sự phân biệt giữa thị trường quốc nội và thị
trường quốc tế. Trong bối cảnh mới như vậy, các mô hình công nghiệp hóa thay thế
nhập khẩu, hướng xuất khẩu hoặc hỗn hợp… hiển nhiên là không còn chỗ đứng. Việt
Nam cũng như các quốc gia khác, rất cần xác định mới mô hình công nghiệp hóa, vừa
thích ứng với chuỗi giá trị toàn cầu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư…và phù hợp
với điều kiện, mục tiêu, yêu cầu… của nước nhà.
Nghiên cứu, tổng
kết chủ nghĩa tư bản hiện đại và các quá trình cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội,
các phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Sinh thời, các nhà kinh điển nhiều
lần nhấn mạnh phải nhìn nhận chủ nghĩa cộng sản tương lai qua các ô cửa số nhỏ
của chủ nghĩa tư bản và chính các nhà kinh điển cũng đã xác lập chủ nghĩa xã hội
khoa học trên cơ sở phân tích sâu sắc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, cả phương thức sản xuất
và chế độ tư bản chủ nghĩa đều có nhiều vận động, biến đổi, trong đó xuất hiện
nhiều yếu tố và khuynh hướng rất khác so với thời đại của các nhà kinh điển.
Nghiên cứu, tổng kết kịp thời hiện thực đương thời của chủ nghĩa tư bản là công
việc không thể thiếu, thậm chí có thể xem là công việc đầu tiên, đối với việc bổ
sung, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời đại mới.
Mặt khác, các
quá trình cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội được triển khai ở Trung Quốc, Việt
Nam, Cuba, Lào…trong hơn 40 năm qua; chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Mỹ La tinh từ
năm 2000 và các phong trào xã hội chủ nghĩa khác; những tư duy mới về chủ nghĩa
xã hội của các lực lượng cộng sản trên thế giới… không chỉ đem lại cho lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học nhiều sự bổ sung, phát triển phong phú, đặc sắc mà
còn củng cố bản thân chủ nghĩa xã hội như một phong trào hiện thực – điều mà
các nhà kinh điển luôn luôn yêu cầu phải xem đó là tiêu chí hàng đầu khi đánh
giá về chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ năm
2000 và nhất quán từ đó đến nay, các đội chính trị tiền phong cầm quyền ở
Venezuela, Bolivia, Ecuador và Nicaragua khẳng định xây dựng đất nước theo mô
hình và con đường chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI. Phạm trù này không chỉ mới mẻ ở
mệnh đề mang tính thời gian của thế kỷ mới, mà còn chứa đựng trong đó sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh
đầy sự vận động bước ngoặt của thời đại và trong điều kiện cụ thể của các quốc
gia dân tộc Mỹ La tinh.
Hơn 2 thập kỷ
đã trôi qua với rất nhiều thăng trầm của phong trào xã hội chủ nghĩa sống động
này, đủ để khẳng định đây không là một ngẫu hứng chính trị, mà là một tất yếu của
cuộc đấu tranh nhân dân rộng lớn đang đặt ra đòi hỏi về những phương án thay thế
mô hình tự do mới tư bản chủ nghĩa (alternatives to capitalist neoliberalism) bằng
một chế độ xã hội tốt đẹp hơn. Đòi hỏi này của Mỹ La tinh, điển hình nhất là ở
4 quốc gia nêu trên, có nhiều điều tương tự như ở nước Nga Sa hoàng đầu thế kỷ
XX. Nếu lãnh tụ Lênin đã vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội cả về
lý luận và thực tiễn một cách mẫu mực cách đây một thế kỷ, thì các đội chính trị
tiền phong và quần chúng cách mạng Mỹ La tinh trong trên dưới 20 năm qua cũng
đã lập nên nhiều kết quả, thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Sự chống phá điên cuồng,
hằn học của các thế lực tư bản, đế quốc và phản động chính là một bằng chứng về
bản chất cách mạng xã hội chủ nghĩa của phong trào hiện thực mang đậm dấu ấn Mỹ
La tinh này.
Nghiên cứu, tổng
kết kịp thời chủ nghĩa tư bản hiện đại và các quá trình cải cách, đổi mới chủ
nghĩa xã hội, các phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới hiện nay chắc chắn
sẽ góp phần ngày càng làm sáng tỏ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới của thời đại.
0 nhận xét: