Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò, tầm vóc của chủ nghĩa Mác-Lênin và luôn khẳng định là một người mácxít-lêninít. Trong âm mưu, thủ đoạn tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch, phản động đã rất tinh vi, xảo quyệt khi âm mưu tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đấu tranh phản bác âm mưu này là một việc làm thiết thực để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) thông qua đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đã minh chứng rằng, nhờ có chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc và đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng cũng cho thấy, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai cấu phần hợp thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và hai yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau, không thể thiếu một yếu tố nào.
Tuy nhiên, thời
gian qua đã xuất hiện một số ý kiến muốn tách rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, thậm chí còn tìm cách luận giải cho rằng chỉ có tư tưởng Hồ Chí
Minh mới phù hợp với cách mạng Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác-Lênin là “tư tưởng
ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc”, không phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam và đã bị chối bỏ ở nơi quê hương của nó, “du nhập chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”(2); do đó chỉ cần nói
đến tư tưởng Hồ Chí Minh và đi đến kết luận võ đoán rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin”(?). Đây thực chất là một quan điểm sai trái,
xuyên tạc về mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và
chủ nghĩa Mác-Lênin. Quan điểm này tưởng như là sự đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh,
tưởng như là sự khẳng định những công lao, cống hiến của Hồ Chí Minh với đất nước
và dân tộc Việt Nam, nhưng thực chất là nhằm tách rời và đối lập tư tưởng Hồ
Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin; âm mưu phủ định cơ sở lý luận quan trọng nhất
của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin; phủ định thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa
Mác-Lênin. Đây là bước đi nhằm tiến tới phủ định bản chất khoa học, cách mạng của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên thực tế,
các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, trong đó nổi lên hiện nay là sự chống
phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Rõ ràng, tư tưởng, văn hóa là mặt trận hết
sức gay gắt, quyết liệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, làm thất
bại các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, phản động. Thực tế cho thấy
đang xuất hiện nhiều hơn những mưu toan kích động, xuyên tạc nhằm “hạ bệ thần
tượng”, làm nghi ngờ, gây hoang mang, dao động, thậm chí gây chia rẽ, hỗn loạn
nhận thức về nền tảng tư tưởng của Đảng trong hàng ngũ những người cộng sản, từ
đó dẫn tới mất phương hướng, mâu thuẫn, rối loạn trong tổ chức và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, đưa đến những sai lầm, làm mất uy tín, ảnh hưởng của Đảng trong
quần chúng nhân dân và do đó đánh mất vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính
trị. Những mưu toan này có lúc công khai, trắng trợn, có lúc tinh vi, xảo quyệt.
Việc tuyên truyền, xuyên tạc về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
tách rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí cho rằng “Tư tưởng
Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin” là một âm mưu rất tinh vi, xảo quyệt,
nằm trong những mưu toan đó của các thế lực thù địch, phản động và thực chất
không có gì mới. Nhưng vào những dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc, đất
nước, kỷ niệm thành lập Đảng, hoặc những sự kiện chính trị đặc biệt, thì những
quan điểm này lại xuất hiện theo kiểu “bổn cũ soạn lại”. Tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, nhận diện và đấu tranh phản bác, làm thất bại những âm
mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, trong
đó có âm mưu tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, là
công việc mang ý nghĩa hết sức quan trọng và thường xuyên hiện nay.
Trước hết,
cần phải nhận rõ mưu toan cắt xén và đánh tráo khái niệm của các ý kiến xuyên tạc,
tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Những ý kiến xuyên
tạc, âm mưu tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin
cho rằng, Hồ Chí Minh là một người yêu nước, là một người theo chủ nghĩa dân tộc,
chỉ mong muốn làm thế nào để giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc
Việt Nam. Trong khi đó, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về đấu tranh giai cấp,
là hệ tư tưởng chỉ của riêng giai cấp công nhân, nên đối lập với cả chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Những ý kiến kiểu này đã
cố ý không thấy một thực tế là Hồ Chí Minh không chỉ muốn giải phóng đất nước,
giành lại độc lập cho dân tộc, mà quan trọng hơn nữa là phải làm thế nào để
toàn thể người dân được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm no thực sự sau khi
giành được độc lập, như Người đã từng tâm sự: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(3).
Bởi trong quan niệm của Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(4). Người chỉ rõ: “Chúng
ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập
cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được
ăn no, mặc đủ”(5).
Đó chính là
lý do để lý giải vì sao mặc dù đánh giá cao cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và đúc
kết được những kinh nghiệm quý báu từ hai cuộc cách mạng tiêu biểu này trong thời
cận đại, nhưng Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nêu lên nhận xét về những cuộc cách mạng
đó xét về bản chất đều là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, chỉ mang lại
quyền lợi cho một thiểu số người trong xã hội, trong khi đại đa số những người
dân lao động vẫn phải chịu cảnh bị áp bức, bóc lột, bất công và vẫn phải mưu
tính làm cách mạng lần nữa. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã quyết định không lựa chọn
con đường cứu nước và phát triển của dân tộc Việt Nam theo hình mẫu của các cuộc
cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp. Thực tế, như chúng ta đều biết, qua quá trình
nghiên cứu, khảo sát nhiều trào lưu tư tưởng chính trị trong hành trình bôn ba
nước ngoài, Người đã lựa chọn con đường cách mạng do chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ
ra: con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường thực hiện độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện ba sự nghiệp giải phóng là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong một chỉnh thể thống nhất
để thực sự mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc triệt để cho tất cả người dân,
không phân biệt giàu nghèo, vùng miền, không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc
thiểu số, có tôn giáo hay không theo tôn giáo, nam hay nữ, …. Nói cách khác,
con đường cách mạng vô sản theo ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đáp ứng được
yêu cầu giải phóng dân tộc một cách triệt để mà Hồ Chí Minh luôn phấn đấu thực
hiện.
Các ý kiến
cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đánh tráo
khái niệm khi luận giải Hồ Chí Minh đặt vấn đề dân tộc lên trên hết và trước hết,
trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ coi trọng vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp,
coi trọng bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân. Như vậy, rõ ràng là tư tưởng Hồ
Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin (?).
Đúng là trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khi giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề dân tộc lên trên hết,
trước hết và xác định vấn đề giai cấp phải xếp sau vấn đề dân tộc, phục vụ cho
vấn đề dân tộc. Nhưng đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh
đối với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đó là sự quán triệt, vận dụng đúng đắn linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin –
phương pháp luận duy vật biện chứng, vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa
phong kiến như Việt Nam; là sự vận dụng quy luật chung vào hoàn cảnh cụ thể, đặc
thù, hết sức sinh động, muôn màu, muôn vẻ của những hiện tượng, quá trình lịch
sử riêng biệt. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó là cần thiết, đã thể hiện
theo đúng lời dặn của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận Mác như là một
cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận
đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải
phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”(6).
Vì vậy, không thể đánh đồng sự vận dụng và phát triển sáng tạo với sự mâu thuẫn,
đối lập.
Thứ hai, Hồ
Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò, tầm vóc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Khi ra đi tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh không chỉ trăn trở tìm kiếm lời giải bài toán làm
thế nào, bằng cách nào để giành lại nền độc lập của nước nhà, giải phóng dân tộc
Việt Nam khỏi ách thống trị ngoại bang, mà còn mong muốn tìm ra một hệ tư tưởng
làm nền tảng soi sáng cho con đường đi của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng
và xây dựng xã hội mới, một triết lý phát triển của dân tộc. Qua những trải
nghiệm phong phú trong thực tiễn, khảo sát, phân tích sâu sắc về những trào lưu
tư tưởng, những con đường cứu nước của các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh
nhận thức rõ rằng đường lối cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc phải được
xây dựng trên một nền tảng tư tưởng nhất định thì mới đảm bảo tính nhất quán và
sự thông suốt trong cả tư tưởng và hành động của lực lượng cách mạng, trước hết
là lực lượng lãnh đạo, từ đó đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng.
Lực lượng lãnh đạo phải có chủ nghĩa làm cốt và ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, tức là phải thống
nhất quán triệt, vận dụng chủ nghĩa ấy trong quá trình vận động và tổ chức sự
nghiệp cách mạng thì sự nghiệp đó mới thành công được.
Hồ Chí Minh còn
chỉ ra rằng, lực lượng lãnh đạo mà không có chủ nghĩa làm nòng cốt thì cũng giống
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam (la bàn)(7).
Người không có trí khôn thì đương nhiên sẽ không thể có chủ trương, đường lối
đúng đắn được; và tàu không có la bàn dẫn đường thì cũng sẽ không thể xác định
được hướng đi đúng giữa đại dương mênh mông, bao la.
Nhưng vấn đề
còn quan trọng hơn nữa trong thời đại của Hồ Chí Minh là Người xác định,
phải lựa chọn đi theo chủ nghĩa nào, học thuyết nào. Bởi lẽ, như Người từng thấy
rõ: “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều”. Đó là hệ tư tưởng tư sản, hay
hệ tư tưởng vô sản, hoặc nhân danh là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nhưng
thực chất đã bị tha hóa, biến tướng, như chủ nghĩa công liên, nghiệp đoàn vàng,
chủ nghĩa xét lại ….? Đi theo chủ nghĩa nào, tư tưởng nào là vấn đề hết sức
quan trọng đặt ra, buộc phải có sự lựa chọn, cân nhắc cẩn thận, chính xác.
Trong bối cảnh đầy những phức tạp, tiềm ẩn nhiều “ngõ cụt” đó, Hồ Chí Minh đã
biết phát hiện ra và tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất,
cách mạng nhất và nhân văn nhất của thời đại, trong khi những người Việt Nam
khác, dù cũng giàu lòng yêu nước và từng sống nhiều năm ở nước ngoài như nhà
chí sĩ Phan Châu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, … nhưng vẫn không nhìn ra được.
Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(8).
Đó là sự tổng kết, đúc rút của Hồ Chí Minh từ thực tiễn nghiên cứu, khảo sát
phong phú các trào lưu tư tưởng, các phong trào đấu tranh yêu nước, các cuộc
cách mạng của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Có thể nói chặng đường mà Hồ
Chí Minh đã đi để đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là “chặng đường chiến thắng biết
bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”(9).
Sau này,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định
vai trò hết sức quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân Việt Nam. Với nhiều cách thức diễn đạt khác nhau, Người đã chỉ ra
vai trò nền tảng tư tưởng, dẫn đường của chủ nghĩa Mác-Lênin: “chủ nghĩa
Mác-Lênin làm gốc”(10); “Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành
động”(11); “Chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học
nhất”(12); chủ nghĩa Mác-Lênin “không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi
tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(13)…
Trong quan niệm
của Hồ Chí Minh, việc hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là yêu cầu, điều kiện không thể
thiếu để Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hoàn thành vai trò, nhiệm vụ được giao.
Với tổ chức Đảng, Người chỉ ra rằng: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo. Muốn lãnh đạo
được phải hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin”(14). Với mỗi cán bộ, đảng viên,
Người nêu rõ: “Có học tập lý luận Mác-Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng,
giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được
tốt công tác Đảng giao phó cho mình”(15). Người nhắc nhở: “hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu
ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ”(16).
Đặc biệt, với
trái tim nhân văn sâu sắc, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm hết sức độc đáo về
vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là giúp nhân lên những giá trị
tích cực trong mỗi người, cộng đồng và xã hội: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải
sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình
có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”(17).
Đánh giá rất
cao vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng nhắc nhở
các cán bộ, đảng viên phải biết vận dụng đúng đắn và phát triển phù hợp với điều
kiện cụ thể, tránh căn bệnh máy móc, giáo điều. Người chỉ rõ: “Học tập chủ
nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và
đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin
để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm.
Lý luận đi đôi với thực tiễn”(18).
Thứ ba, Hồ
Chí Minh luôn nhất quán khẳng định bản thân là một người mácxít-lêninnít
Tháng 7-1920,
khi đọc Luận cương của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã hết sức xúc động.
Sau này, Người có tâm sự về thời điểm đặc biệt đó: “Luận cương của Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(19).
Trên nền tảng
lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã từ một người
yêu nước nhiệt thành trở thành người cộng sản chân chính, đã tìm ra con đường
đi đúng đắn cho bản thân và con đường giải phóng, phát triển chính xác, phù hợp
với lịch sử và thời đại của dân tộc. Đó là con đường dựa chủ yếu vào sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết của toàn thể quốc dân đồng bào, đồng
thời tích cực tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh đuổi giặc ngoại xâm, đi tới xây
dựng một xã hội mới mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no thực sự cho tất cả
mọi người dân, một xã hội không còn áp bức, bất công, thực hiện giải phóng dân
tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con đường phát triển khoa học, cách mạng
triệt để và nhân văn sâu sắc. Thực tế lịch sử dân tộc cho thấy con đường này đã
được dân tộc lựa chọn, ủng hộ và tin theo. Đúng như Đảng đã khẳng định: “Với tấm
lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chủ tịch đã sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy
ở chủ nghĩa Mác-Lênin ánh sáng soi đường cứu dân, cứu nước”(20).
Cũng chính là
trên nền tảng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là
phương pháp luận duy vật biện chứng, với trí tuệ lỗi lạc và tư duy lý luận sắc
sảo, thấm đẫm thực tiễn phong phú, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó hạt
nhân cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc không chỉ vai trò là người tìm
đường, mà còn cả vai trò người mở đường và dẫn đường, trở thành vị lãnh tụ vĩ đại
và kính yêu của dân tộc Việt Nam, vị Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa
kiệt xuất. Đồng thời, với những hoạt động, cống hiến hết sức phong phú trên nền
tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng trở thành người
chiến sĩ quốc tế lỗi lạc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân tiến bộ trên thế
giới, đã “góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. …. những tư tưởng của Người là hiện thân của
những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của
mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”(21).
Tháng 7-1946,
ngay tại thủ đô Pari (Pháp), trên cương vị nguyên thủ của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đang thăm nước Cộng hòa Pháp, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn trả lời các
nhà báo quốc tế: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng
tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”(22).
Chỉ một thời
gian ngắn trước khi qua đời, trong bài trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp Sáclơ
Phuốcniô (ngày 15-7-1969), Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Lúc đầu, chính là
do chủ nghĩa yêu nước mà tôi tin theo Lênin. Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết
luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”(23). Nêu lên
những thắng lợi của nhân dân Việt Nam từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố,
nhưng cần phải nhấn mạnh rằng – mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100
Ngày sinh Lênin – chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái
vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lênin”(24).
Trọn cuộc đời,
Hồ Chí Minh đã phấn đấu theo lý tưởng cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ
nghĩa Mác-Lênin và là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, đã mang lại những
thành công cho cách mạng Việt Nam và đưa dân tộc Việt Nam đến những thành tựu
như hiện nay. Chính trên tinh thần đó, từ những bài học của cách mạng Việt Nam,
đặc biệt là qua 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã nhấn mạnh một trong những tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là “phải kiên
định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh”(25). Đây là một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống
còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho
phép ai được ngả nghiêng, dao động.
0 nhận xét: