Nhân kỷ niệm
105 năm Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, trên các trang mạng xã hội
của nhóm những người nhân danh dân chủ, đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam và các
facebook cá nhân của những người “theo đóm”, “theo bả” của các thế lực thù địch
đã đăng tải một số bài viết, với những luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật.
Trong đó, họ không chỉ phủ nhận ý nghĩa và giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 mà còn bẻ cong sự thật khi xuyên tạc việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin, chọn con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô sản là
sai lầm; cho rằng Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
dẫn đến đất nước mất “bao năm nội chiến” và “chậm phát triển như ngày nay”. ..
Trước những
thông tin sai lệch, dối trá, bôi đen sự thật nhằm xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chống phá Đảng và chế độ này, cần phải khẳng định chắc chắn rằng:
CÁCH MẠNG THÁNG
MƯỜI NGA MỞ ĐẦU MỘT THỜI ĐẠI MỚI TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Càng có đội lùi
của thời gian, chúng ta càng khẳng định rằng: Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại
của cuộc Cách mạng Tháng Mười vẫn vẹn nguyên, trường tồn. 105 năm đã trôi qua
(1917-2022), song sự kiện vĩ đại, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu sắc, làm
rung chuyển cả thế giới cũng như việc cuộc cách mạng vĩ đại ấy đã mở ra con đường
đưa các dân tộc thuộc địa, bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do,
xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc; trong đó có Việt Nam ở Đông Nam
châu Á là không thể phủ nhận! Đó chính là một cuộc Cách mạng mở đường, đúng như
V.I Lênin đã khẳng định: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào
là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây dựng nhà nước Xôviết và do đó, mở đầu một
thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới,
giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một
cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành lập chuyên
chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến
tranh đế quốc chủ nghĩa”(1).
Với Việt Nam,
vào thập niên 1920, khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đang bôn ba trên hành
trình tìm đường cứu nước, trải nghiệm và khảo sát các chế độ chính trị xã hội ở
nhiều quốc gia, nhiều châu lục, thì Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công. Không lâu sau, Quốc tế thứ III – Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập
ngày 2/3/1919 tại Mátxcơva (Liên Xô) đã “bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất
của Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và
của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên chính của
giai cấp vô sản” . Ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga và “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đã giúp
Người tìm thấy con đường để giải phóng dân tộc mình, nhân dân mình khỏi kiếp lầm
than. Và thế là, như một sự lựa chọn của lịch sử, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng
Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ lựa chọn, bỏ phiếu cho Quốc
tế thứ III, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên – một trong những thành
viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, mà còn đồng thời lựa chọn con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Một hành trình
hoạt động cách mạng về lý luận và thực tiễn, hình thành con đường cách mạng Việt
Nam bắt đầu. Và cũng từ sự lựa chọn có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng này,
sau đó, trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời
của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định
trong tác phẩm Đường Cách mệnh rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”(2); “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta
rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có
đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(3) và “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”(4)…
Khi những điều
kiện cần và đủ đã chín muồi, Người đã không chỉ vận dụng những bài học kinh
nghiệm của Cách mạng Tháng Mười vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để sáng lập một
Đảng Mácxít – Lêninnít cách mạng chân chính; đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán làm
nòng cốt cho phong trào cách mạng; cổ vũ, động viên và quy tụ sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trong các hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng
lập lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng căn cứ địa cách mạng… mà còn lãnh đạo
nhân dân kiên trì đấu tranh cách mạng, đón và chớp đúng thời cơ để vùng lên
giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị của
Nhật, Pháp và giành chính quyền về tay nhân dân. Với Tuyên ngôn độc lập đọc
ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á.
CON ĐƯỜNG CÁCH
MẠNG VIỆT NAM DO CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, ĐẢNG TA VÀ NHÂN DÂN LỰA CHỌN LÀ ĐÚNG ĐẮN
Lịch sử dân tộc
Việt Nam và lịch sử thế giới đương đại ghi nhận rằng: Không có sự lựa chọn con
đường cứu nước đúng đắn theo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917 của Nguyễn Ái Quốc; không có việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào Việt Nam những năm cuối thập niên 1920 thì tất yếu cũng không có một Đảng
cách mạng được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc một Đảng Mácxít – Lêninnít
để tập hợp, quy tụ, lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh và giành thắng lợi
trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Và nếu không có thắng lợi của cuộc Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam vào mùa Thu năm 1945 thì cũng
không có một cuộc đổi đời lịch sử của những người nô lệ trở thành chủ nhân một
nước Việt Nam độc lập, tự do trong thế kỷ XX. Bởi rằng, thắng lợi có ý nghĩa thời
đại đó đã đưa tên đất nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; đồng thời
đưa nhân dân Việt Nam trở thành những người có quyền tự quyết định con đường
phát triển của dân tộc mình và thụ hưởng những giá trị đích thực của độc lập, tự
do, của quyền con người mà trước đó “họ chưa bao giờ có được”…
Thực tế cho thấy
rằng, một ngày sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày
3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời chủ trì cuộc họp
để giải quyết những công việc cấp bách. Giữa bộn bề công việc và ở trong tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”, 6 nhiệm vụ cấp bách mà Người cùng Chính phủ quyết
liệt triển khai thực hiện đều không ngoài những quyết sách nhằm chống thù
trong, giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập vừa giành được và bắt đầu kiến thiết đất
nước. Trong những ngày tháng cam go đó, không thể không nhắc đến những nhiệm vụ
chính trị quan trọng được triển khai thành công như: Xúc tiến tổ chức tổng tuyển
cử bầu Quốc hội theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông, bỏ phiếu kín; soạn thảo
và sớm thông qua tại Quốc hội khóa I để Việt Nam có một bản Hiến pháp dân chủ,
công bình của các giai cấp – Hiến pháp 1946; thực hiện công cuộc xóa nạn mù chữ;
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để từng bước xóa nạn đói; tiến hành các
hoạt động ngoại giao mềm dẻo, hòa hoãn với kẻ thù, ngăn chặn và làm thất bại âm
mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, thôn tính đất nước của quân Tưởng và Pháp (hòa với Tưởng
để tập trung đánh Pháp; hòa với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước)…
Trong điều kiện
vừa giành được độc lập, phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức, những quyết
sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng (đã rút vào hoạt động bí mật từ tháng
11/1945) và Chính phủ không chỉ mang lại cho người dân Việt Nam những lợi ích thiết
thực của độc lập, tự do, mà còn góp phần củng cố, nhân nguồn sức mạnh đại đoàn
kết của toàn dân tộc. Vì thế, không có việc chế độ dân chủ cộng hòa ở Việt Nam
khi đó là “phi dân chủ”, là thực hiện chuyên chính vô sản nên “đã tàn sát” những
người yêu nước trong các đảng phái khác, “gây đổ vỡ lớn trong dân tộc” như sự bịa
đặt của Tâp hợp dân chủ đa nguyên. Thực tế, những công việc mà chính quyền cách
mạng triển khai đều không ngoài thực thi nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống
yên bình của người dân cả nước. Nếu Việt Nam thực sự “phi dân chủ”, thì chắc chắn
không thể có cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I theo nguyên tắc bình đẳng,
phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Hơn nữa, nếu không có dân chủ, nếu Đảng thực
sự “độc tài và chuyên quyền” như các thế lực thù địch vu khống, thì cũng không
thể có khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng, củng cố trên nền tảng liên
minh công nhân – nông dân – trí thức cùng các tầng lớp lao động khác trở thành
động lực chủ yếu của cách mạng được tập hợp trong các hình thức Mặt trận từ năm
1930 đến nay (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) được.
Có một sự thật
cũng cần phải khẳng định rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 –
1975) của nhân dân Việt Nam chắc chắn không phải là “cuộc nội chiến Bắc – Nam”
và cuộc trường chinh kháng chiến đó cũng không phải là sự áp đặt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng như các luận điệu phản động, xuyên tạc tung lên mạng xã hội.
Mà chỉ có một sự thật- đó là một cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt
Nam cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cho khát vọng “thống nhất
nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”, cho niềm tin tưởng “Nam Bộ là máu
của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam” và “đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt
Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”(5)…
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Việc quy chụp
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “nội chiến” chính là một trong những
chiêu trò đổi trắng thay đen của các nhà “rân chủ”, ngáo “dân chủ tư sản”. Luận
điệu xuyên tạc này không phải là sự thật, mà sự thật là nhân dân Việt Nam tiến
hành cuộc kháng chiến để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vì một nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vì thế, sau 21 năm
kiên cường kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, miền Nam đã được giải phóng, cả
nước đã thống nhất vào mùa Xuân năm 1975. Như vậy là, nhân dân Việt Nam yêu nước
đã đồng tâm, hợp lực và đoàn kết để chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc
mình; cho phẩm giá làm người của chính mình như mình lựa chọn, chứ không phải
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam “sai lầm từ đầu”, “mê muội rập
khuôn theo Liên Xô”, “đi theo Liên Xô vào lúc mà đế quốc này sắp sụp đổ”, đã
“áp đặt cuộc nội chiến” như sự quy chụp và vu khống của các thế lực thù địch.
Có thể khẳng định
rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng
lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc; tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước (1945-1975). Ước mơ về một đất nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, “non sông liền một dải” cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực. Những hồi ức “ngày Bắc đêm Nam”, “kẻ Bắc
người Nam” khi đất nước bị chia đôi đã trở thành quá khứ. Đi cùng đó, chế độ
“Việt Nam cộng hòa” thân Mỹ cũng không còn hiện diện. Sự thật là, sau khi cả nước
thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, thì hòa bình, độc lập, tự do và một đất
nước Việt Nam khởi sắc, ngày một phát triển sau những năm dài chiến tranh tàn
khốc đã mang lại cho mỗi người dân trên mọi miền của Tổ quốc một đời sống vật
chất và tinh thần ngày càng tốt hơn; năm sau tốt hơn năm trước. Đặc biệt, sau
hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những thành tựu đạt được của đất
nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại;
kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, được nhân dân
ghi nhận, tin tưởng và kỳ vọng chính là minh chứng sinh động nhất khẳng định ý
nghĩa, giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đồng thời, cũng chứng
minh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin, đi theo
con đường của Cách mạng Tháng Mười, liên minh chặt chẽ với các nước xã hội chủ
nghĩa, nhân dân Việt Nam tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của mình, quyết tâm
đi tới một tương lai hạnh phúc tươi đẹp, đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa”(6) là
hoàn toàn đúng đắn!
Cùng với đó,
cũng cần phải khẳng định rằng, với thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc “đem người nô lệ thành người tự do” vào mùa Thu năm 1945 cách đây 77 năm,
dưới sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng, nhân dân Việt Nam đã khẳng định được
nguồn sức mạnh vô song của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân; đồng thời, cổ
vũ các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác vùng lên đấu tranh để tự giải phóng
mình, mở đầu cho những thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh sau đó. Đặc biệt, một sự thật cũng không thể
phủ nhận nữa là, với thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên hành trình đấu tranh
cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội hơn 92 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam
không chỉ kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn khẳng định
được vị trí, vai trò của mình trong quá trình xây dựng và phát triển; không chỉ
vững vàng, bản lĩnh, kiên định trước những biến động của tình hình quốc tế, khu
vực, trong nước, mà còn và luôn xứng đáng là Đảng cầm quyền, độc quyền lãnh đạo
cách mạng Việt Nam – lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị, xây dựng và bảo vệ,
phát triển đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội như Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa năm 2013 đã hiến định.
Trân trọng Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – những cuộc cách
mạng không chỉ ghi dấu mốc trong lịch sử của mỗi dân tộc mà còn là một mốc son
trong lịch sử thế giới đương đại là không thể cãi bàn. Bởi rằng, trân trọng những
hy sinh và cả những thành tựu của quá khứ cũng chính là trân trọng nguồn sức mạnh
nội lực của chính mình, dân tộc mình trên hành trình hướng đến tương lai tươi
sáng. Nên là, những luận điệu phản động cho rằng Cách mạng Tháng Mười Nga “đã sụp
đổ tại chính quê hương của nó”, đã “chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là sai lầm, ảo tưởng” và Việt Nam đi theo “vết xe đổ đó là sai lầm”
thật thiển cận. Không phải Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ
là chủ nghĩa Mác – Lênin đã “hết thời”, mà đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình
chủ nghĩa xã hội hiện thực vì những lý do chủ quan và khách quan của nó. Đồng
thời, cũng không phải vì những khó khăn, thách thức đang tiếp tục phải đối diện
trên hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội mà có thể quy chụp rằng Đảng Cộng sản
Việt Nam kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đưa đất nước đến
nghèo đói, đưa đất nước “đi vào ngõ cụt”.
Một Việt Nam
“chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh
chứng khách quan sinh động nhất, bác bỏ mọi sự xuyên tạc! Vì thế, dù nhân danh
ai và tổ chức nào, thì khách quan cũng không thể xuyên tạc, bẻ cong được giá trị
thời đại, có tính định hướng lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cũng như
sự lựa chọn con đường cứu nước duy nhất đúng, phù hợp xu thế thời đại, phù hợp
điều kiện, vị thế địa chính trị Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực tế, việc
lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, quyết tâm xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam là sự thật và sự
thật đó cho thấy các nhà “rân chủ” vừa hay xuyên tạc vừa hay mơ hão! Chắc chắn,
ở Việt Nam không cần đa nguyên, đa đảng đối lập; không đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa và thực thi nền dân chủ tư sản, nên giấc mơ “Việt Nam dân chủ, tự do
tư sản” của các nhà “rân chủ” chỉ còn là ảo vọng!