50 năm đi qua, đã có rất nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, ý nghĩa chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Những số liệu đưa ra đã được thẩm định, đánh giá với bằng chứng xác thực, cả phía Mỹ và Việt Nam đều thừa nhận chứ không phải là những con số tự nghĩ ra hay thích thì ghi số này, sau lại sửa số khác. Cần khẳng định rõ, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” có được nhờ đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và nghệ thuật quân sự tài tình của Việt Nam.
Trong những
ngày cuối tháng 12/2022, các cơ quan chức năng triển khai nhiều hoạt động ý
nghĩa, thiết thực nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”
(12/1972 – 12/2022). Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là một mốc son chói
lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Thế nhưng trong
dịp này, các thế lực xấu lại rêu rao, đưa ra nhiều bài viết xuyên tạc lịch sử,
cho rằng chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” chỉ là do “gặp thời”, “may mắn”.
Họ còn cho rằng quân và dân Việt Nam sẽ không thể làm nên một “Điện Biên Phủ
trên không” nếu khi đó Mỹ tiếp tục duy trì cuộc ném bom hủy diệt miền Bắc thêm
một thời gian nữa. Có bài viết “vặn” vấn đề rằng, Mỹ ký Hiệp định Paris là do
phía Mỹ chủ động chứ không phụ thuộc vào kết quả cuộc ném bom trong 12 ngày đêm
cuối năm 1972 tại miền Bắc Việt Nam…
Một bài viết
đăng trên BBC News Tiếng Việt cho rằng, trong cuộc chiến tranh 12 ngày đêm ấy,
các phi công Mỹ bị bắt, cầm tù, tra tấn và thường xuyên bị bêu riếu trên truyền
hình, tạo sức ép cho chính quyền Mỹ phải ngồi vào bàn đám phán Paris mới được
đưa tù binh Mỹ về nước. Họ biến mọi con số thống kê thành ảo khi nghi ngờ rằng,
Việt Nam cố tình thống kê quá mức con số bắn hạ máy bay B52 để khuếch trương
thanh thế!
Mới đây, trên
Quora, thiếu tá Keith Parker từng phục vụ trên các máy bay B-52G và C-130 cố
tình xuyên tạc sự thật khi viết rằng, Việt Nam đã bắn hơn 1.400 tên lửa SAM[1]2
lên bầu trời “một cách mù quáng” để hạ gục các máy bay B-52 chứ không phải là
do thực lực của phòng không Việt Nam. Keith Parker cho rằng, Bộ Chỉ huy phòng
thủ hàng không vũ trụ Bắc Mỹ (NORAD) và Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC)
đã tự nghiên cứu rất nhiều phương pháp chống B-52 nhưng đều thất bại, ngay cả
những quốc gia như Liên Xô cũng đều không dám tự tin hạ gục B-52. Từ đó, đánh
lái bản chất sự kiện này thành “Việt Nam đã thất bại vào 12/1972 chứ không phải
là một chiến thắng như họ tuyên truyền.
Thiệt hại của
Việt Nam nặng nề hơn trong khi chỉ bắn hạ được 2% số B-52 mà Hoa Kỳ có”! Một số
cựu phi công của Hạm đội 7 cho rằng, Việt Nam đã may mắn bắn hạ được B-52 nhờ
vào chiến thuật “vãi đạn”; là kết quả của chiến thuật sử dụng hỏa lực phòng
không “bừa bãi” để hạ gục B-52 chứ không đến từ sự tính toán chiến thuật và
năng lực phòng không! Gary Cummings, một cựu binh từng tham chiến tại Việt Nam
còn đặt một giả thuyết rằng, tất cả đều do chính những sĩ quan Liên Xô mới bắn
rụng B-52 chứ không có bộ đội nào của Việt Nam bắn hạ. Một cựu binh khác là
Paul Reinman còn khôi hài hơn khi cho rằng, phi công MiG của Việt Nam đã bắn hạ
B-52 là “do vô tình lạc vào đường bay của B-52 chứ không phải là do năng lực”!
Trong một diễn đàn tự cho là “nghiên cứu lịch sử”, có một số người cổ suý những
quan điểm lệch lạc trên, từ đó bình luận rằng, Việt Nam đã may mắn bắn hạ B-52
vì sự chủ quan của đối phương, vì trời tối, vì sự chủ quan của quân Mỹ…
Những luận điệu
trên làm sai lệch bản chất sự kiện, tung ra những con số ảo và tạo nghi vấn về
các số liệu lịch sử nhằm gây nhiễu loạn thông tin, xuyên tạc ý nghĩa, giá trị của
chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Trên thực tế, chính Mỹ đã thừa nhận
mình là bên không chịu nổi tổn thất và buộc phải ra lệnh chấm dứt ném bom miền
Bắc và ngồi vào bàn đám phán ký kết Hiệp định Paris.
50 năm đi qua,
đã có rất nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, ý nghĩa chiến
thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Những số liệu đưa ra đã được thẩm định, đánh
giá với bằng chứng xác thực, cả phía Mỹ và Việt Nam đều thừa nhận chứ không phải
là những con số tự nghĩ ra hay thích thì ghi số này, sau lại sửa số khác. Cần
khẳng định rõ, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” có được nhờ đường lối chiến
tranh nhân dân đúng đắn và nghệ thuật quân sự tài tình của Việt Nam.
Với tầm nhìn
xa, trông rộng, Đảng và Bác Hồ đã sớm chỉ đạo bộ đội Phòng không – Không quân
chuẩn bị tinh thần và lực lượng để đánh máy bay B.52 và các loại máy bay chiến
thuật khác từ nhiều năm trước đó. Trong 12 ngày đêm của chiến dịch lịch sử,
quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng, không khoan nhượng.
Chiến thắng ấy
là sự minh chứng hùng hồn sức mạnh của con người Việt Nam, sức mạnh của sự kết
hợp hài hòa các yếu tố cách mạng và khoa học, giữa bản lĩnh vững vàng, khí
phách tiến công, quyết đánh và trí tuệ để đánh thắng, sự kết hợp giữa tinh thần
quyết chí, tin tưởng với đức hy sinh cao thượng.
Thực tế lịch sử
ghi rõ, tháng 12/1972, Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược bằng
B.52 nhằm gây sức ép buộc ta phải chấp nhận ký Hiệp định Pari theo các điều khoản
sửa đổi của Mỹ; đánh phá, hủy diệt tiềm lực kinh tế – quốc phòng của miền Bắc,
hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam, làm tê liệt ý chí chiến đấu, quyết
chiến, quyết thắng của dân tộc ta; đe dọa phong trào đấu tranh của nhân dân thế
giới. Thực hiện âm mưu này, Mỹ đã huy động số lượng lớn máy bay, tàu chiến và
các loại vũ khí vào chiến dịch.
Đây là cuộc huy
động lực lượng tập kích đường không lớn nhất của Mỹ kể từ sau đại chiến thế giới
lần thứ hai đến năm 1972. Trong đó, máy bay chiến lược B.52 gồm 193/tổng số 400
chiếc hiện có của quân đội Mỹ; máy bay không quân chiến thuật gồm 1.077/tổng số
3.043 chiếc (có 1 biên đội máy bay F. 111 khoảng 50 chiếc); tàu sân bay với
6/24 chiếc; hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số loại máy bay phục vụ
khác như máy bay gây nhiễu từ xa, máy bay trinh sát chiến lược, chiến thuật,
máy bay chỉ huy, liên lạc dẫn đường, cấp cứu cùng 60 tàu chiến các loại của Hạm
đội 7 ở Thái Bình Dương. Máy bay chiến lược B.52, còn được gọi là siêu pháo đài
bay B.52, là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của không lực Hoa Kỳ vào thời điểm
đó, có tải trọng vũ khí 18 – 30 tấn bom, có thể mang 12-20 quả tên lửa hành
trình ALEM hoặc 8 tên lửa hành trình (tàng hình) ACM, 4 pháo 20mm hoặc một pháo
20mm 6 nòng (gấp 10 lần so với máy bay cường kích). Cuộc tập kích đường không
chiến lược của đế quốc Mỹ vào miền Bắc nước ta cuối tháng 12/1972 là một cuộc
ném bom có tính hủy diệt.
Trong 12 ngày
và đêm, Mỹ đã sử dụng 663 lần máy bay B.52 và 3.920 lần máy bay chiến thuật ném
xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc nước ta hơn
100.000 tấn bom, đạn. Chiến dịch thả bom đã huỷ diệt nhiều phố xá, làng mạc,
phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó có gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh
viện, nhà ga, giết chết 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác.
Với sự chủ động,
sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi
cách đánh máy bay B.52, các lực lượng vũ trang ta với nòng cốt là quân chủng
Phòng không – Không quân và nhân dân miền Bắc, nhất là quân dân Thủ đô Hà Nội
đã phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận phòng không nhân dân vững chắc, hợp
đồng tác chiến chặt chẽ giữa các lực lượng, quyết đánh, biết đánh và quyết thắng.
Ngay từ trận đầu
ra quân, đêm 18/12/1972, ta đã bắn rơi tại chỗ “siêu pháo đài bay B.52”, mở màn
cho những thắng lợi vang dội trong những trận đánh tiếp theo. 12 ngày đêm chiến
đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân vàdân ta đã đánh bại hoàn
toàn cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô lớn chưa từng có, chủ yếu bằng
B.52 của Mỹ, làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Sau thất bại này,
Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 17 trở ra và chấp nhận quay trở lại
bàn đàm phán. Ngày 27/01/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hoà bình ở Việt Nam được ký kết. Cuối tháng 3/1973, quân đội Mỹ và chư hầu phải
rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Không chỉ Việt
Nam mà các nghiên cứu từ phía Mỹ cũng đã nhìn nhận rõ vấn đề này. Trên tạp chí
Air & Space của Bảo tàng Smithsonian (Mỹ) có bài viết tựa đề “The Christmas
Bombing” (Trận mưa bom Giáng sinh) được trích từ cuốn sách The Eleven Days of
Christmas: Americas Last Vietnam Battle (11 ngày Giáng sinh: Trận chiến Việt
Nam cuối cùng của Mỹ) của tác giả Marshall Michel, người đã trực tiếp đến Hà Nội,
mô tả khá chi tiết về chiến dịch Linebacker II do Mỹ chủ mưu. Theo tác giả
Marshall Michel, đầu tháng 12/1972, Nixon điện cho Kissinger thông báo kế hoạch
ném bom trong kỳ nghỉ lễ Giáng sinh.
Ngày 14/12,
Nixon họp với cố vấn an ninh Kissinger, tướng Alexander Haig và chủ tịch Hội đồng
tham mưu trưởng liên quân, đô đốc Thomas Moorer thông qua lần cuối chiến dịch
Linerbacker II. Mục tiêu mà Mỹ đặt ra là duy trì nỗ lực tối đa để phá hủy tất cả
các tổ hợp mục tiêu chính ở khu vực Hà Nội và Hải Phòng và các vùng lân cận, tạo
ra “cường độ khủng khiếp để buộc Việt Nam Dân chủ cộng hòa phải chấp nhận điều
khoản của Mỹ, và cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thấy rằng Mỹ không bỏ rơi họ”.
Cũng qua chiến dịch này, Nixon muốn răn đe Sài Gòn nếu giúp Nixon kéo dài đàm
phán, xa hơn là giúp Nixon chiến thắng trong nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo thì
Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ…
Bài viết trên tạp
chí Air & Space cũng nêu rõ, do thiệt hại ngoài sức tưởng tượng nên ngày
30/12/1972, Tổng thống Nixon đã ra lệnh chấm dứt ném bom… Vậy là Hiệp định
Paris đã được ký với nội dung về cơ bản không khác mấy so với phương án đã được
ký tắt trước khi đàm phán bị kéo dài do Mỹ từ chối ký kết trước đây. Bài viết
cũng cho rằng, Mỹ đã chịu rất nhiều tổn thất để rồi vẫn phải ký vào văn bản mà
họ không muốn ký, điều này đồng nghĩa là mục tiêu của Mỹ khi phát động chiến dịch
Linebacker II thực sự thất bại. Chiến dịch Linebacker II bị phản đối mạnh mẽ
trên khắp thế giới, cả ở các nước XHCN lẫn các nước phương Tây, thậm chí tại Mỹ,
Nixon còn bị chỉ trích là kẻ điên rồ…
Thanh Ngà
0 nhận xét: