Trong sửa đổi Luật Đất đai lần này, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên định quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai do nhà nước đại diện quản lý. Đây là vấn đề có tính căn cốt thể hiện sự kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Điều này tất nhiên không làm thỏa mãn mục tiêu của các thế lực thù địch cho nên chúng đang cố sức rêu rao cho rằng trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, tiếp tục thực hiện công hữu về đất đai là bảo thủ, là sự thụt lùi của lịch sử.
Sự khác biệt
căn bản giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là ở chế độ sở hữu về tư liệu
sản xuất, trong đó có sở hữu về đất đai – tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Chủ
nghĩa tư bản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, còn chủ nghĩa xã hội dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân (gọi tắt là công hữu) về đất đai. Chính vì vậy, chế độ sở hữu
tư liệu sản xuất nói chung và đất đai nói riêng đã trở thành đối tượng cơ bản,
là điểm nóng nhất trong cuộc đấu tranh tư tưởng giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản diễn ra từ trước đến nay.
Thực tiễn thế
giới hiện nay cho thấy, các nước thực hiện chế độ công hữu về đất đai chiếm số
ít, trong khi các nước thực hiện chế độ tư hữu lại chiếm số đông, trong đó có rất
nhiều nước đạt tới sự phát triển hùng cường. Vậy chân lý có thuộc về số đông
hay không, tại sao Việt Nam và một số nước khác vẫn kiên trì theo đuổi chế độ
công hữu về đất đai và coi đó là một nguyên tắc có tính sống còn?
Chủ nghĩa
Mác-Lênin là học thuyết chỉ ra con đường, cách thức xây dựng một chế độ xã hội
mới về chất trên trái đất này. Đó là một chế độ không có bóc lột, áp bức, bất
công, mọi người đều tự do, bình đẳng, được phát huy hết khả năng của mình cho cộng
đồng, xã hội… Xã hội lý tưởng đó là mơ ước ngàn đời của cả nhân loại, nhất là của
những người lao động. Chính vì mục tiêu cao đẹp đó mà chủ nghĩa xã hội đã hấp dẫn,
thu hút được hàng tỷ người trên thế giới theo đuổi, đấu tranh và đã xây dựng
nên một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực, làm thay đổi bộ mặt thế
giới trong thế kỷ XX.
Trên thế giới
cũng đã có nhiều học thuyết hướng về giải phóng con người khỏi khổ đau, mong muốn
đưa con người đến một thế giới tốt đẹp. Điểm khác biệt của chủ nghĩa Mác –
Lênin với các học thuyết khác là ở chỗ nó là một phong trào hiện thực chứ không
phải lý tưởng xa vời, ảo tưởng. Bởi muốn xây dựng được một xã hội công bằng,
không có áp bức, bất công thì xã hội đó phải dựa trên một nền tảng căn bản là
tư liệu sản xuất chủ yếu, trong đó có đất đai phải thuộc sở hữu chung của tất cả
mọi người.
Vì sao vậy?
Hãy liên tưởng, không khí trên hành tinh của chúng ta vừa là của chung, vừa rất
dồi dào nên ai cũng được thở như nhau, không có chuyện tranh giành cướp bóc,
cao thấp, sang hèn vì không khí. Nếu đất đai cũng là của chung sẽ không có người
được ở rộng, người ở hẹp, người có đất tốt, người dùng đất xấu, người ở nơi thuận
lợi, kẻ ở chỗ khó khăn. Khi đất đai là tư liệu sản xuất của chung thì mọi người
cùng làm, cùng hưởng, sẽ không có kẻ ít người nhiều, kẻ giàu người nghèo, kẻ sướng,
người khổ. Xuất phát từ lôgíc ấy cho nên khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thành
công, chính quyền mới đều tuyên bố thực hiện chế độ công hữu về đất đai làm cơ
sở kiến tạo một chế độ bảo đảm sự công bằng, bình đẳng triệt để cho tất cả mọi
người.
Ngược lại, ở
các quốc gia thực hiện chế độ sở hữu tư nhân về đất đai thì người có tiền, có
quyền sẽ chiếm được nhiều đất, người yếu thế sẽ có ít, hoặc không có đất đai,
phải đi làm thuê, làm mướn, bị chủ đất trả công bèo bọt, đối xử tệ bạc, từ đó
sinh ra nghèo đói, bất bình đẳng, bất công. Trên thế giới có nhiều người sở hữu
hàng nghìn hécta đất nhưng cũng có nhiều người không “một tấc đất cắm dùi”.
Từ khi Việt
Nam thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta càng thấy
rõ hơn những hệ lụy của việc quản lý, sử dụng đất đai chưa hiệu quả (dẫn đến việc
nhiều người lầm tưởng rằng Việt Nam đang chuyển sang thực hiện chế độ tư hữu về
đất đai). Thời bao cấp, mỗi thôn, xóm, khu tập thể thường có một sân bóng, một
cái chợ trên đất công nên ai cũng có quyền đến đó chơi, kinh doanh buôn bán. Hiện
nay, sân chơi ấy, cái chợ ấy được giao cho một tổ chức hoặc cá nhân thuê. Tuy
không phải là tư nhân hóa nhưng trên thực tế mảnh đất ấy không còn là của chung
nữa, ai có tiền mới được vào chơi, kinh doanh buôn bán. Bất công từ đó mà nảy
sinh, người có tiền sẽ được hưởng lợi, người không có tiền, không có điều kiện
sẽ không được hưởng những giá trị mà mảnh đất ấy mang lại. Vì vậy, tuy thực hiện
chế độ công hữu về đất đai nhưng hiện nay đã có người được sử dụng hàng trăm
hécta đất và cũng có rất nhiều nông dân không còn đất phải rời bỏ quê hương đi
làm công nhân hoặc đi làm thuê, làm mướn ngay trên mảnh đất của mình.
Mấy ví dụ
trên cho thấy chế độ công hữu về đất đai có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
bình đẳng xã hội và bảo đảm quyền lợi của người nghèo. Chế độ công hữu còn thuận
lợi cho việc sử dụng đất đai vào xây dựng đường sá, công trình công cộng, an
ninh quốc phòng… Đất đai là của chung sẽ dễ dàng quy hoạch, kế hoạch sử dụng tiết
kiệm, hợp lý, tạo nên những cánh đồng rộng lớn để áp dụng khoa học, công nghệ
hiện đại, từ đó tạo ra năng suất, chất lượng cao, đủ sức cung cấp lương thực,
thực phẩm cho tất cả mọi người.
Chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai có tính ưu việt như vậy nhưng tại sao đa số các nước lại thực
hiện chế độ tư hữu về đất đai? Nên nhớ rằng, chế độ tư hữu là sản phẩm tự nhiên
của lịch sử, nảy sinh từ khi xã hội có giai cấp. Muốn biến đất đai từ của riêng
thành của chung thì phải làm cách mạng. Mà cách mạng là một công việc rất khó
khăn không phải ai và ở đâu cũng làm được. Cho dù các lực lượng chính trị tiến
bộ muốn thay đổi chế độ chính trị hiện thời nhưng nếu họ không có mục tiêu xây
dựng một chế độ mới bình đẳng cho tất cả mọi người, nhất là cho người lao động
thì họ cũng không việc gì phải làm cách mạng chuyển đổi từ chế độ tư hữu thành
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nói chung và đất đai nói riêng.
Đất đai là của
chung do nhà nước đại diện quản lý thì nhà nước phải có đủ năng lực quản lý sao
cho nó không biến thành của riêng vì con người luôn có tính chiếm hữu, rồi lại
phải tổ chức sản xuất cho có năng suất, chất lượng cao để toàn dân có cuộc sống
ngày càng đầy đủ, sung túc hơn. Chuyển từ tư hữu thành công hữu về đất đai đã
khó nhưng quản lý và tổ chức sản xuất hiệu quả còn khó gấp vạn lần. Đa số các
nước thực hiện chế độ công hữu về đất đai thường chưa có đủ tiền đề cần thiết,
chưa có kinh nghiệm quản lý, thiếu công cụ pháp lý; khoa học, công nghệ và
phương pháp tổ chức sản xuất lạc hậu khiến cho đất đai dễ bị xà xẻo, bỏ hoang,
hoặc sản xuất không hiệu quả. Điều đó dễ làm cho người ta ngộ nhận tính ưu việt
của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai trong các nước tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam thực
hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do nhà nước đại diện quản lý tuy đã đạt
được nhiều thành công nhưng tình trạng thất thoát, lãng phí đất công, tham
nhũng, tiêu cực trong quản lý đất đai đang gây bất bình trong nhân dân, giảm
lòng tin vào Đảng và chế độ. Tuy nhiên, vì mục tiêu xây dựng một xã hội bình đẳng
chúng ta phải kiên trì thực hiện chế độ công hữu về đất đai. Vấn đề ở đây là phải
làm sao phát huy tốt nhất tính ưu việt của chế độ công hữu về đất đai, quản lý
và sử dụng hiệu quả nguồn lực quan trọng này. Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương
5 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về “Tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử
dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”,
trên cơ sở đó Quốc hội tiến hành sửa đổi Luật Đất đai nhằm khắc phục những bất
cập, hạn chế trong quản lý và sử dụng đất đai vừa qua.
Như vậy, sở hữu
toàn dân về đất đai do nhà nước đại diện quản lý không phải là ảo tưởng, ngược
chiều lịch sử, trái lại là bước đi tiến bộ, vượt trước, mở đường để xây dựng một
chế độ xã hội tốt đẹp hơn. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chế độ công hữu về đất đai
cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ mới.
0 nhận xét: