Ngày Lễ Giáng sinh không có nguồn gốc từ Việt Nam, đó là ngày lễ của những người theo Kitô giáo như Công giáo, Tin lành. Từ khi được truyền vào Việt Nam đến nay, đạo Công giáo, Tin lành đã có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội của người dân Việt Nam.
Các ngày lễ
Công giáo như Giáng sinh, Phục sinh đã góp phần làm phong phú thêm đời sống tâm
linh và sinh hoạt văn hoá của người dân. Thông qua sinh hoạt văn hoá tâm linh cộng
đồng, người dân là những người theo đạo hay không theo đạo có dịp hiểu và đoàn
kết nhau hơn.
Đây cũng là dịp
để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí và nguyện vọng của
người dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch và một số tổ chức thiếu thiện chí vẫn
luôn tìm mọi cách chống phá, tuyên truyền những luận điêu sai trái, cho rằng Việt
Nam không có tự do tôn giáo, xuyên tạc về tình hình, đời sống tôn giáo ở nước
ta hòng tạo sự hoài nghi, phá hoại khối đoàn kết tôn giáo.
Những luận
điệu sai trái
Trong 5 năm qua
(2017-2022), Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ vẫn định kỳ ra báo cáo thường
niên về tự do tôn giáo toàn cầu. Họ cho mình quyền nhận xét, đánh giá phê phán
về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của Việt Nam và một số quốc gia khác.
Họ sử dụng thông tin tài liệu cũ hoặc không chính thống từ các nhóm, phái tôn
giáo chưa được nhà nước công nhận, số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ, định
kiến với Đảng, Nhà nước để tiếp nhận thông tin sai lệch, đưa vào báo cáo đánh
giá.
Một số tổ chức
tìm cách khuyến khích, cổ vũ cho các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần
xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các
vùng sâu, vùng xa, gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục,
trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Giáo hội và xã hội, gây bức xúc trong
nhân dân, với âm mưu muốn giáo dân chống đối chính quyền. Họ kích động với luận
điệu đây là quyền con người “quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo”;
xuyên tạc Luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, coi đó là “bước thụt lùi”,
“bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người… Họ
kiến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại những nước cần quan tâm đặc
biệt về tôn giáo (CPC), “gây sức ép và hối thúc Việt Nam cho phép tất cả các
nhóm, phái tôn giáo chưa được công nhận hoạt động một cách tự do; giảm can thiệp
của chính quyền vào các công việc nội bộ của các nhóm tôn giáo đã được công nhận
và nhấn mạnh tiến bộ về tự do tôn giáo có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải
thiện quan hệ song phương”…
Ngoại trưởng Mỹ
Antony Blinken ngày 2/12 thông báo “đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt
về tự do tôn giáo”.
Thực tiễn trả
lời cho những cáo buộc
Việt Nam là một
quốc gia đa tôn giáo. Ở Việt Nam có những tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hoà Hảo,
Cao đài…) song hành cùng các tôn giáo du nhập từ bên ngoài (Công giáo, Phật
giáo, Tin lành…). Các tôn giáo luôn luôn giữ mối đoàn kết và tôn trọng niềm tin
tôn giáo lẫn nhau, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Theo thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín
ngưỡng và tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ
cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng
45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng,
tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hằng năm, Việt
Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng,
lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa – thể thao và
ngành nghề.
Đến nay, Việt
Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn
giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện
có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự.
Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1
triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin lành 1 triệu; Hồi giáo 80.000; Phật giáo Hòa hảo
1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Tứ ân Hiếu
nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…).
Thực tế đã chứng
minh, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, dù còn bộn bề công
việc, ngày 3/9/1945, tại phiên họp của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan
tâm đến nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào theo đạo.
Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương – giáo
đoàn kết”.
Ngày 14/6/1955,
Người đã ký sắc lệnh 234/SL xác định “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là
quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện.
Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tôn giáo phải tuân
theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự
do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”.
Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, kỳ thị đoàn kết cùng
toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà và lịch sử đã chứng minh, dù trong điều
kiện khó khăn của đất nước nhưng chức sắc các tôn giáo, đồng bào có đạo giáo khẳng
định rõ sự gắn bó đồng hành với dân tộc.
Ngày nay, ở khắp
mọi miền của đất nước, đặc biệt là tại các thành phố, các trung tâm tôn giáo lớn
như Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Tây Ninh, Cần
Thơ…, các sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi nổi, đa dạng và phong phú. Hoạt động
của các thiết chế tôn giáo đã có những đóng góp nhất định trong việc tập hợp và
vận động quần chúng theo đạo – một lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết
dân tộc – tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Các ngày lễ
trọng, các lễ nghi, lễ hội tôn giáo được tổ chức ngày càng trang nghiêm, quy mô
hơn trước và thu hút ngày càng đông đảo tín đồ tham dự. Nhiều sinh hoạt tôn
giáo đã trở thành sinh hoạt văn hoá cộng đồng được đông đảo tầng lớp nhân dân
tham gia với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng. Các lễ hội như lễ Phật
đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin lành, lễ kỷ niệm ngày khai
đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, tháng ăn chay Ramadan của Hồi giáo… được
tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm bảo an ninh trật tự. Lễ hội của nhiều
tôn giáo đều trở thành lễ hội chung vui của toàn dân tộc như lễ Noel, lễ hội La
Vang.
Đặc biệt, lễ Phật
đản của Phật giáo đã chính thức được UNESCO công nhận là một trong những lễ hội
tôn giáo lớn của thế giới. Một số lễ hội mang tính thế tục được dư luận quan
tâm đánh giá cao, như: Lễ cầu siêu cho những người đã hy sinh trong cuộc kháng
chiến do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức năm 2005; Đại hội hành hương La
Vang lần thứ 27 kết hợp “Năm Thánh thể” với quy mô lớn do Hội đồng Giám mục Việt
Nam tổ chức; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội thánh do Tổng hội Hội thánh
Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) tổ chức năm 2005…
Bên cạnh những
giá trị đạo đức, các tôn giáo còn có hệ thống những lễ hội rất phong phú. Trước
đây, việc tổ chức và tham gia lễ hội là công việc nội bộ giáo hội và tín đồ
trong đạo. Ngày nay, rất nhiều lễ hội tôn giáo không còn là chuyện riêng của từng
tôn giáo mà nó có sức lan toả, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng xã hội như Lễ
Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ Phật đản, Vu lan của
Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh Cao đài Tây Ninh…
Lễ Giáng sinh
chỉ là 1 trong số 8 ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong một năm ở Việt Nam.
Thực tế không khí sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân những
năm qua ngày càng sôi động và có chiều hướng gia tăng. Cứ nhìn vào các lễ hội
tôn giáo, các buổi lễ trọng của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian cũng có thể
nhận rõ, những sinh hoạt này không chỉ là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong
các cộng đồng của đồng bào có đạo mà còn đang trở thành ngày hội thu hút đông đảo
người dân tham gia.
Ðiều đó cho thấy
Ðảng và Nhà nước đã luôn tạo mọi điều kiện để nhân dân được tự do tham gia các
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Việc đa dạng các hoạt động tôn giáo là minh chứng
cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã và đang được bảo đảm. Không
chỉ đối với đồng bào theo đạo Công giáo, quy mô và hoạt động tôn giáo của đồng
bào theo các tôn giáo khác cũng ngày càng tăng và diễn ra sôi động, đời sống
tâm linh của người dân luôn được chính quyền quan tâm.
Những thông
tin, luận điệu sai lệch, xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam mà các tổ chức
thiếu thiện chí đưa ra tác động đến suy nghĩ, tình cảm của chức sắc tôn giáo và
đồng bào có đạo, tạo sự hoài nghi về chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng,
Nhà nước ta. Vậy tiêu chí, tiêu chuẩn của Ủy ban Tự do tôn giáo Quốc tế Mỹ là
gì? Họ đại diện cho ai để phê phán, đánh giá về tự do tôn giáo của Việt Nam,
khi mà các phê phán của họ chỉ là sự lạc lõng, không được chức sắc tôn giáo đồng
tình?
Thực tiễn đời sống
tôn giáo đã chứng minh khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam;
khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là củng cố niềm tin của
chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Chiều 15/12,
Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định, Mỹ đưa Việt Nam vào danh
sách cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu
khách quan, cũng như thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín
ngưỡng tại Việt Nam. Chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, điều
này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật của Việt Nam
và được bảo đảm tôn trọng trên thực tế.
Phó phát ngôn
Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: “Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền
con người, bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo cho người dân đã được cộng đồng quốc
tế thừa nhận rộng rãi. Việt Nam sẵn sàng trao đổi với Mỹ về các vấn đề hai bên
cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, đóng góp
vào thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”.
0 nhận xét: