Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, vẫn còn một số người có nhận thức chưa đúng, thậm chí những kẻ cơ hội, bất mãn chính trị đã phê phán, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần nhận diện, bác bỏ những luận điệu sai trái này.
Thứ nhất,
cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng.
Một số người bị
dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Sinh thời,
tuy Chủ tịch
Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng
trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được
hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam”(1). Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí
Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tổ chức UNESCO
khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong
việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn
nhau”(2). Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên
thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những
thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững
chắc điều này.
Một số người có
nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập
với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh” tư tưởng Hồ
Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng
Việt Nam.
Hai quan điểm
này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác-Lênin
chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt
logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm
phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ
Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu
thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người.
Về quan điểm thứ
nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc
khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa
cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu
này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang
mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng,
làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng.
Về quan điểm thứ
hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin từng có giá trị nhưng đã bị
lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt
qua thì Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng
Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Từ đó họ cho rằng,
nên đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại
tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí
Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu tách tư tưởng
Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin thì bản
thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng,
nhân văn như vốn có.
Bên cạnh đó, một
số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số
cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” như trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những
khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang
tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.
Từ đó, họ cho rằng,
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng,
khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp
năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và xã hội.
Xây dựng, chỉnh
đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên,
mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa
nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó,
xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết
điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(3).
Vậy mà, khi Đảng
kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong
công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng,
với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết
là Đảng ta “đấu đá nội bộ”, “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực”. Họ làm
ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu” để
đánh giá, phán xét Đảng.
Danh nghĩa là họ
đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang
mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân
chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính
trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng,
vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, phủ
nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay.
Một số người đã
có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ
nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”, “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng” vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu
quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý
do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình
thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang
có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại.
Thực tế, Chủ tịch
Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ
ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng:
“Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ”
không nói, là tôi mang nhọ mãi”(4).
Những người này
đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của
Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người
đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo” một cách máy móc
để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai”. Do đó, đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực
trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của
huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn
nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc
Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20,
mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức
lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo
vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
Để việc đấu
tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục,
chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ
quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác
các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán
triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên
định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.
0 nhận xét: