3/9/23

Bác bỏ thông tin sai sự thật về vấn đề người Khmer ở Việt Nam


“Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài lịch sử của đất nước”, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định.

 

Cảnh giác trước những thông tin sai sự thật

 

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữa nước của cả dân tộc. Bởi vậy, có thể khẳng định, lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc gắn với lịch sử hình thành và phát triển đất nước Việt Nam. Thời gian qua, nhiều thế lực thù địch luôn triệt để lợi dụng vấn đề quyền của người dân tộc để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó phải kể đến tổ chức Khmer Kampuchea Krom.

 

Khmer Kampuchea Krom là một tổ chức hoạt động trên phạm vi quốc tế có xu hướng bài Việt Nam và tham gia các hoạt động chống Đảng, chính quyền, Nhà nước Việt Nam. Tổ chức này gồm nhiều đối tượng xấu, trước nay thường xuyên vu cáo về cái gọi là “Việt Nam cướp đất của Campuchia”. Khmer Kampuchea Krom sử dụng hình ảnh 3 màu xanh – vàng – đỏ làm biểu tượng tuyên truyền, vận động, lôi kéo, móc nối với số phần tử thù địch, phản động trong nước với mục tiêu mặc định sự tồn tại của tổ chức trong vùng dân tộc Khmer, tiến tới đòi quyền “dân tộc tự quyết” cho người Khmer, lập “Nhà nước Khmer Krom”…                       

 

Hồi tháng 7, tổ chức này còn lợi dụng việc phá bỏ cổng chào tỉnh Trà Vinh, vốn bị hư hỏng nặng và có khả năng gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông để bịa đặt thông tin chính quyền không cho người dân tổ chức các trò chơi dân gian nhân dịp lễ Chôl Thnăm Thmây năm 2023 và đưa ra luận điệu xuyên tạc rằng “chính quyền người Việt muốn xóa bỏ văn hóa của người Khmer”, muốn thực hiện chính sách “đồng hóa dân tộc Khmer”.

Thậm chí, nhiều đối tượng thù địch, quá khích còn công khai thách thức chính quyền nhân dân, treo cờ của tổ chức Khmer Kampuchea Krom, xuyên tạc “Lịch sử vùng đất Nam bộ – Việt Nam”… Chưa hết, chúng tiếp tục lợi dụng những người Khmer bức xúc về giải quyết tranh chấp đất đai, lôi kéo, xúi giục họ không chấp hành sự giải quyết của chính quyền địa phương… Gần đây, Khmer Kampuchea Krom lại tiếp tục bịa đặt về tình hình người Khmer ở Việt Nam.

 

Liên quan đến vấn đề này, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng ngày 31/8 đã khẳng định: “Chúng tôi bác bỏ những thông tin không có cơ sở, sai sự thật về tình hình người Khmer ở Việt Nam. Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Các dân tộc Việt Nam đều được đối xử bình đẳng. Nhà nước Việt Nam bảo đảm và tạo điều kiện phát triển về mọi mặt nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp, đóng góp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc”.

Dân tộc Khmer là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam và được đánh giá là dân tộc sở hữu nhiều nét đặc trưng riêng biệt và độc đáo. Thống kê cho thấy, dân tộc Khmer ở Việt Nam có khoảng 1,3 triệu người, sống tập trung ở tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long và phân bố rải rác ở một vài nơi khác. Người Khmer có ngôn ngữ và chữ viết riêng. Tiếng nói của dân tộc Khmer thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me. Trang phục truyền thống của người dân Khmer mang những đặc trưng riêng về tạo hình và mặt thẩm mỹ. Nam nữ đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm, người có tuổi mặc quần áo bà ba màu đen còn nam giới khá giả sẽ mặc bộ bà ba màu trắng, khăn rằn quấn trên đầu hoặc vắt qua vai. Trong đám cưới, trang phục của chú rể là áo xà rông có màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái  quàng chiếc khăn dài trắng. Cô dâu sẽ mặc váy màu tím hoặc màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống…

 

Đồng bào Khmer có nhiều lễ hội đặc sắc, tiêu biểu là Tết đón năm mới và Lễ cúng trăng. Trong những dịp này, bà con thăm hỏi, chúc lẫn nhau, tổ chức nhiều hoạt động văn nghệ, thể thao. Ngoài ra, dân tộc Khmer còn có nền âm nhạc sân khấu truyền thống Dù kê, một sự kết hợp có nguồn gốc từ cả Ấn Độ lẫn Đông Nam Á, bao gồm các loại hình nghệ thuật như: ca, múa, âm nhạc, vũ thuật, phục trang, hóa trang, hội họa và ẩm thực. Nghệ thuật sân khấu Dù kê vừa phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí, vừa giúp người xem cảm nhận được điều hay lẽ phải, nhận thức được thiện – ác, chính – tà, định hướng cho con người. Với những giá trị đặc biệt đó, sân khấu Dù kê đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian.

 

Người Khmer Nam Bộ hầu hết đều theo tín ngưỡng Phật giáo, hệ phái Nam Tông. Di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer cũng chính là nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp: chùa có mái cao thẳng đứng, hoa văn họa tiết sơn vàng, hệ thống tượng Phật, thần Kabil Maha Prum, nữ thần đất, hung thần Reahu, tiên nữ, vũ nữ Apsara, người chim, vua khỉ Hanuaman…

 

Chùa là nơi người Khmer thực hiện nghi lễ của Phật giáo, dạy chữ Khmer, lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản xuất; là nơi gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là nơi tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào dân tộc Khmer tuân thủ các quy định của pháp luật, tích cực tham gia phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự.Như ở tỉnh Sóc Trăng, sau vài năm hoạt động, mô hình “Sư sãi và phật tử tham gia phòng, chống tội phạm, đảm bảo ANTT” đạt được mục tiêu chung là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự. Đặc biệt là từ mô hình này, việc cung cấp cho lực lượng Công an những thông tin có liên quan đến tình hình an ninh trật tự tại khuôn viên chùa cũng như trên địa bàn các xã, huyện, thị xã ở tỉnh Sóc Trăng ngày càng nhanh chóng, kịp thời hơn.

 

Thượng tọa Trần Văn Tha – Phó trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Chánh Thư ký Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng, trụ trì chùa Sê Rây Ta Mơn chia sẻ thêm rằng, đến nay, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước của tỉnh đã thực hiện tốt chức năng hướng dẫn đồng đào dân tộc Khmer sinh hoạt tôn giáo đúng quy định, phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền; vận động chức sắc, đồng bào phật tử tham gia các phong trào xã hội ở địa phương, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và cùng chung tay tham gia phòng chống tội phạm, bảo đảm ANTT. Bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới tôn giáo, đời sống bà con cũng đang từng bước được nâng cao nên càng tạo thêm sự tin tưởng, đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh.

 

Những chính sách phát triển hiệu quả

 

Thực hiện nhất quán đường lối “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ đồng bộ, ưu tiên bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer. Trong đó phải kể đến Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 14/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI và Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kết luận số 57-KL/TW, ngày 03/11/2009, của Bộ Chính trị “Về công tác dân tộc”; Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011 – 2020” nhằm xây dựng tổng thể các chính sách ưu đãi riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Đồng bằng sông Cửu Long, trọng tâm là đồng bào Khmer giai đoạn 2014 – 2020 và có Chiến lược phát triển toàn diện đối với đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới…

 

Việc thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã được Chính phủ, các ban, bộ, ngành và các tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer thực hiện nghiêm túc, cụ thể, phù hợp với sự phát triển chung của cả vùng và từng địa phương. Đến nay, Chính phủ ban hành 100 văn bản thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đang triển khai thực hiện trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có 58 chính sách chung có liên quan đến chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và 42 chính sách riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số; chủ yếu là các quyết định phê duyệt các chính sách, dự án quan trọng, toàn diện đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đối với đồng bào Khmer nói riêng.

Hòa thượng Tăng Nô – Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, Phó Hội trưởng Thường trực Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng cho biết, những năm qua, nhờ các chủ trương, chính sách hỗ trợ về mọi mặt của Đảng và Nhà nước, diện mạo vùng đồng bào dân tộc Khmer đã thay đổi, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được nâng lên rõ rệt; đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế – xã hội trong vùng đồng bào Khmer sinh sống và các chính sách về an sinh xã hội. Tại thời điểm trước khi Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII ban hành Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, các chương trình, dự án triển khai ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, đã xây dựng 90 nghìn nhà ở, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở cho 30.025 hộ; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho 18.609 lao động và 5.139 hộ.

Bà con rất phấn khởi vì được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, vì thế luôn nỗ lực và thực hiện đúng nếp sống “tốt đời đẹp đạo”, Hòa thượng Tăng Nô nói. Trong khi đó, Thượng toạ Trần Văn Tha, Phó trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, trụ trì chùa Sê Rây Ta Mơn thì nhấn mạnh: “Cấp uỷ Đảng, chính quyền luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các cơ sở tôn giáo, chức sắc, chức việc ở thị xã hoạt động; góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá truyền thống. Đặc biệt, trong việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ Khmer, chính quyền cũng đã hỗ trợ các kinh phí về giảng dạy và giúp các sư sãi trong chùa vận động bà con xung quanh cho phép con em mình được tham gia các lớp học tiếng Khmer vào dịp hè. Những việc này đã thể hiện rõ chính sách nhất quán của Nhà nước về việc bình đẳng và đoàn kết các dân tộc Việt Nam”. 

0 nhận xét: