Một
Đảng cầm quyền chỉ có thể xứng đáng với Nhân dân nếu mọi quyết sách đều hướng
tới nâng cao đời sống thực của người dân".
Xin
trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với các đại
biểu tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7:
"Thưa
các nhà khoa học, các học giả Việt Nam và quốc tế,
Thưa
các quý vị đại biểu dự cuộc gặp.
Trước
hết, thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, tôi gửi tới tất cả quý vị
lời chào trân trọng, lời cảm ơn chân thành và tình cảm hữu nghị sâu sắc.
Sự
có mặt đông đảo của các nhà khoa học, các học giả Việt Nam và quốc tế tại Hội
thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ Bảy, với chủ đề "Việt Nam: phát triển
bền vững trong kỷ nguyên mới", thể hiện một điều rất quan trọng: Việt Nam
không chỉ là đối tượng nghiên cứu, mà đã trở thành một đối tác trí tuệ của các
nhà Việt Nam học.
Chúng
ta đã từng 6 lần hội thảo về đất nước con người Việt Nam và Tôi nghĩ rằng chúng
ta sẽ còn tiếp tục trong tương lai vì Việt Nam luôn là một trong những nguồn
cảm hứng khoa học bất tận của các Bạn.
Thưa
các nhà Việt Nam học, thưa các quý vị,
Việt
Nam là một đất nước không lớn về diện tích và dân số so với nhiều cường quốc
trên thế giới, nhưng là một đất nước có lịch sử hình thành, xây dựng, bảo vệ và
phát triển dân tộc liên tục hàng nghìn năm. Lịch sử đó tạo nên một bản sắc rất
đặc biệt.
Đó
là bản lĩnh không khuất phục trước mọi xâm lăng, trước cuồng phong, bão táp; là
trí tuệ biết thích nghi, biết học hỏi, biết kết hợp sức mạnh truyền thống với
tri thức mới; là ý chí "không có gì quý hơn độc lập, tự do"; là khát
vọng xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, vì con người.
Trải
qua các triều đại dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hình thành một nền
văn hiến lâu đời, lấy lòng dân làm gốc, lấy đạo lý nhân nghĩa làm nền, lấy tinh
thần độc lập và tự chủ làm mạch sống.
Nói
về Việt Nam là nói về văn hóa - một nền văn hóa không chỉ là di sản tinh thần
và nghệ thuật, mà còn là năng lực nội sinh để trường tồn.
Văn
hóa Việt Nam là kết tinh của bản sắc dân tộc và sự giao thoa với nhân loại; là
nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh mềm, là "căn cước phát
triển" của quốc gia.
Văn
hóa Việt Nam là nền văn hóa luôn vận động, luôn đổi mới, luôn mở cửa để tiếp
thu tinh hoa bên ngoài, đồng thời giữ vững giá trị cốt lõi bên trong.
Chính
sức sống ấy đã giúp dân tộc chúng tôi vượt qua chiến tranh, tái sinh sau đổ nát
và bước vào thời kỳ phát triển mới với tư thế ngày càng tự tin.
Thưa
các quý vị,
Một
dấu mốc lịch sử mang tính bước ngoặt của dân tộc chúng tôi là sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Từ đó đến nay, 95 năm qua là 95 năm thay
đổi căn bản số phận dân tộc.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam giành độc lập, thống nhất đất nước,
chấm dứt ách đô hộ và chiến tranh kéo dài và đặc biệt, mở ra con đường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa- con đường đặt con người ở vị trí trung
tâm của phát triển.
Chúng
tôi rất coi trọng hòa bình. Tôi muốn nhấn mạnh điều này một cách mạnh mẽ. Hòa
bình, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc di bất dịch. Nhưng
Việt Nam luôn kiên trì giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ
sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Chúng
tôi hiểu sâu rằng: hòa bình không tự nhiên mà có, mà phải trải qua đấu tranh.
Hòa bình chỉ bền vững nếu đi liền với phát triển công bằng, bao trùm, bền vững.
Bốn
mươi năm trước, vào năm 1986, chúng tôi bắt đầu sự nghiệp Đổi mới.
Đổi
mới không phải chỉ là điều chỉnh kinh tế. Đổi mới là một quyết định chiến lược,
là lựa chọn phát triển dựa trên đổi mới tư duy, đổi mới thể chế, đổi mới phương
thức lãnh đạo, gắn với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sâu rộng vào đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực và thế giới.
Đổi
mới đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt, đưa Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn,
bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, trở thành nền kinh tế năng động, hội nhập
sâu, tham gia tích cực vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Ngày
nay, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều
quốc gia; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; tham
gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; đóng góp tiếng nói cho các vấn
đề toàn cầu như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, chuyển
đổi số, thu hẹp bất bình đẳng phát triển.
Chúng
tôi tham gia hội nhập quốc tế với phương châm cùng chung tay với cộng đồng quốc
tế xây dựng một trật tự thế giới dựa trên luật pháp, công bằng, bao trùm, tôn
trọng lợi ích chính đáng của mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ.
Thưa
các quý vị,
Chủ
đề của Hội thảo lần này: "Việt Nam: phát triển bền vững trong kỷ nguyên
mới", đặt đúng câu hỏi có tính sống còn đối với chúng tôi lúc này: Làm thế
nào để phát triển đất nước nhanh mà vẫn giữ vững ổn định chính trị- xã hội; làm
thế nào để tăng trưởng kinh tế mà không đánh đổi công bằng xã hội; làm thế nào
để hiện đại hóa đất nước mà không làm tổn hại đến môi trường sinh thái và các
giá trị văn hóa, đạo lý của con người Việt Nam, làm thế nào để "hòa nhập
mà không hòa tan" vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế quốc tế và nền văn
minh nhân loại, để nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa sánh vai cùng các cường quốc
năm châu.
Với
chúng tôi, phát triển nhanh và bền vững là một thực thể thống nhất. Tăng trưởng
chỉ có ý nghĩa nếu từng người dân được hưởng thành quả phát triển theo cách
công bằng, an toàn và nhân văn; chất lượng cuộc sống thực của người dân được
nâng cao; không ai bị bỏ lại phía sau; tương lai của thế hệ mai sau không bị
đánh đổi để đáp ứng lợi ích trước mắt của thế hệ hôm nay. Do đó, chúng tôi chủ
trương phát triển dựa trên ba trụ cột gắn bó chặt chẽ với nhau.
Thứ
nhất, phát triển thể chế, chính sách, quản trị quốc gia theo hướng tự chủ chiến
lược, hiện đại, minh bạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả.
Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân, một Nhà nước vừa kiến tạo phát triển, vừa bảo đảm công bằng xã hội, vừa
kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm. Đây là trọng tâm
chính trị của chúng tôi.
Thứ
hai, phát triển con người Việt Nam toàn diện. Giáo dục, y tế, khoa học công
nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa.
Đây
được coi là những yếu tố căn cốt, là nguồn lực trực tiếp của phát triển. Tôi
khẳng định rằng: tài nguyên quý nhất của Việt Nam không phải là khoáng sản,
không phải là vị trí địa chiến lược, mà chính là 106 triệu người Việt Nam hiện
nay, những người cần cù, sáng tạo, giàu lòng yêu nước, giàu ý thức cộng đồng,
ham học hỏi và biết vươn lên trong hoàn cảnh khó khăn.
Nếu
không giải phóng và phát huy tối đa sức mạnh trí tuệ, đạo đức, nhân cách, tinh
thần trách nhiệm xã hội của mỗi người Việt Nam, chúng tôi sẽ khó có thể vươn
tới mục tiêu đề ra.
Thứ
ba, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế số,
gắn với khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Con
đường phát triển bền vững trong thế kỷ XXI không thể chỉ dựa vào khai thác tài
nguyên vật chất, lao động giá rẻ hay lợi thế truyền thống, mà phải dựa vào tri
thức, công nghệ, sáng tạo và quản trị thông minh.
Việt
Nam ý thức rất rõ trách nhiệm của mình trước thách thức biến đổi khí hậu, nước
biển dâng, suy thoái đa dạng sinh học, cạn kiệt tài nguyên.
Chúng
tôi xác định tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là lựa chọn chiến lược,
không thể đảo ngược.
Tôi
cũng muốn nhấn mạnh thêm rằng: phát triển bền vững đối với chúng tôi không chỉ
là vấn đề kinh tế và môi trường.
Đó
còn là vấn đề văn hóa, xã hội, con người, đạo lý. Một xã hội phát triển bền
vững là một xã hội coi trọng chân lý, lẽ phải, công bằng, nhân ái; một xã hội
mà người già được tôn trọng, trẻ em được bảo vệ, phụ nữ được trao cơ hội bình
đẳng, người yếu thế được che chở; một xã hội mà niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, đối với chế độ, đối với tương lai luôn vững chắc. Phát triển mà
thiếu các giá trị đó thì không phải là bền vững; không phải là mục đích của
chúng tôi.
Thưa
các quý vị, các nhà khoa học thân mến,
Tôi
đánh giá rất cao việc Hội thảo lần này không chỉ thảo luận về lịch sử, văn hóa,
nghệ thuật Việt Nam, vốn luôn là thế mạnh truyền thống của cộng đồng nghiên cứu
Việt Nam học, mà còn đi sâu vào những chủ đề có tính cấu trúc, có ý nghĩa chiến
lược đối với tương lai đất nước chúng tôi: thể chế chính sách, khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, y tế, giáo dục, kinh tế, tư tưởng và chính sách xã hội.
Nói
cách khác, các bạn không chỉ nghiên cứu "Việt Nam là ai trong quá
khứ", mà còn đang góp phần trả lời câu hỏi "Việt Nam sẽ là ai trong
tương lai". Đó là một đóng góp vừa mang giá trị học thuật vừa mang giá trị
chiến lược.
Tôi
trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các học giả, các chuyên gia Việt Nam học đã
dành nhiều tâm huyết, nhiều năm tháng lao động nghiêm túc, trung thực, khách
quan để nghiên cứu về Việt Nam.
Các
công trình của quý vị không chỉ giúp thế giới hiểu chúng tôi đúng hơn, mà cũng
giúp chính chúng tôi soi lại mình một cách thẳng thắn hơn.
Trong
quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước,
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn lắng nghe các ý kiến phản biện khoa học độc lập,
nghiêm túc, thiện chí.
Những
nghiên cứu có giá trị, giàu hàm lượng thực tiễn, tầm nhìn dài hạn đều là nguồn
tham khảo quý báu cho chúng tôi trong xây dựng chiến lược phát triển đất nước.
Tôi
mong rằng, sau hội thảo lần này, những phát hiện, những khuyến nghị chính sách
của quý vị, đặc biệt về các lĩnh vực như hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, thu hẹp khoảng cách phát triển vùng miền, thích ứng
biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng công bằng, bảo vệ di sản văn hóa trong
quá trình đô thị hóa, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia… sẽ tiếp
tục được chia sẻ, tiếp tục được thảo luận sâu hơn với các cơ quan hữu quan của
Việt Nam.
Chúng
tôi có một khát vọng rất rõ ràng, rất cụ thể, rất nhất quán: xây dựng Việt Nam
trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vào giữa thế kỷ XXI. Đó là Mục tiêu 100 năm thứ hai của chúng tôi, trùng
với kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vào năm 2045.
Mục
tiêu 100 năm thứ nhất, sắp tới vào năm 2030, là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam và cũng là mốc chúng tôi phấn đấu để trở thành nước đang phát
triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Hai
mục tiêu 100 năm ấy không chỉ là những mốc thời gian, không chỉ là những khẩu
hiệu chính trị. Đó là lời cam kết trước Nhân dân Việt Nam hôm nay, và trước thế
hệ mai sau.
Đó
cũng là lời cam kết của Việt Nam trước bạn bè quốc tế: Việt Nam muốn lớn mạnh
bằng tri thức, bằng sáng tạo, bằng hợp tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau;
Việt Nam muốn đóng góp vào tiến bộ chung của nhân loại, cùng tạo ra thành quả
qua lao động sáng tạo và cùng hưởng thụ những thành quả đó.
Thưa
các quý vị,
Chúng
tôi bước vào giai đoạn phát triển mới với tư duy mới, nhưng với những giá trị
không bao giờ thay đổi.
Một
là, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, là
bất khả xâm phạm. Không một sự phát triển nào có ý nghĩa nếu đánh đổi nền độc
lập mà các thế hệ cha anh đã phải hy sinh xương máu để giành lại.
Hai
là, hạnh phúc của nhân dân phải được đo bằng nhà ở, bằng giáo dục, bằng y tế,
bằng môi trường sống trong lành, bằng cơ hội tạo lập cuộc sống hoàn thiện hơn
cho mỗi gia đình, bằng niềm tin rằng con cháu chúng ta sẽ sống tốt hơn chúng ta
hôm nay.
Một
Đảng cầm quyền chỉ có thể xứng đáng với Nhân dân nếu mọi quyết sách đều hướng
tới nâng cao đời sống thực của người dân.
Ba
là, sức mạnh Việt Nam trước hết là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lịch sử
đã chứng minh: khi cả dân tộc đồng lòng, không có thế lực nào khuất phục được
Việt Nam.
Đại
đoàn kết toàn dân tộc là phương thức tồn tại của chúng tôi trong suốt chiều dài
lịch sử. Trong giai đoạn phát triển mới, đại đoàn kết phải được mở rộng hơn
nữa, bao gồm đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, cộng đồng doanh nghiệp, đội
ngũ văn nghệ sĩ, thanh niên, phụ nữ, đồng bào các dân tộc anh em, các tôn giáo,
người Việt Nam ở nước ngoài, bạn quốc tế gắn bó với Việt Nam bằng thiện chí và
sự tôn trọng lẫn nhau.
Tôi
muốn nhấn mạnh: những người bạn quốc tế hiểu và yêu Việt Nam, nghiên cứu về
Việt Nam một cách trung thực, khách quan, xây dựng, đó là một phần trong sức
mạnh mềm của Việt Nam.
Thưa
các quý vị,
Tôi
mong muốn cộng đồng các nhà Việt Nam học tiếp tục đồng hành với chúng tôi,
không chỉ bằng tình cảm mà bằng tri thức khoa học, bằng phân tích chính sách
dựa trên chứng cứ khoa học, bằng khuyến nghị cụ thể, thiết thực, có thể triển khai
được.
Tôi
mong muốn các nghiên cứu về Việt Nam sẽ ngày càng gắn với các vấn đề đang đặt
ra một cách cấp bách: già hóa dân số; phát triển y tế cơ sở và an sinh xã hội
toàn diện; bảo đảm an ninh năng lượng trong điều kiện cam kết giảm phát thải;
bảo vệ chủ quyền số và bản sắc văn hóa trong không gian số; làm thế nào để trí
tuệ nhân tạo và tự động hóa phục vụ phát triển con người chứ không loại bỏ con
người.
Tôi
cũng tha thiết đề nghị giới nghiên cứu quốc tế, các nghiên cứu sinh, các nhà
khoa học đến Việt Nam nhiều hơn, ở lại Việt Nam lâu hơn, làm việc cùng các đồng
nghiệp Việt Nam bình đẳng hơn và lắng nghe tiếng nói từ cơ sở, từ địa phương,
từ cộng đồng, chứ không chỉ nhìn Việt Nam qua các số liệu tổng hợp. Tôi tin
rằng Việt Nam là miền đất rất giàu chất liệu khoa học cho những ai quan tâm đến
phát triển, chuyển đổi, hiện đại hóa, và bền vững.
Thưa
các nhà khoa học, các học giả và các quý vị,
Việt
Nam bước vào kỷ nguyên mới với khát vọng rất lớn, nhưng cũng với tâm thế khiêm
tốn, cầu thị, lắng nghe. Chúng tôi không ảo tưởng rằng con đường phía trước sẽ
dễ dàng.
Những
thách thức toàn cầu ngày nay, cạnh tranh địa chiến lược, biến đổi khí hậu,
khủng hoảng niềm tin, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng công nghệ, không nước
nào có thể giải quyết một mình. Vì thế, chúng tôi luôn coi trọng đối thoại, hợp
tác, tôn trọng luật pháp quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương hiệu quả, công
bằng.
Việt
Nam muốn là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế.
Việt
Nam muốn cùng thế giới bảo vệ hòa bình, thúc đẩy phát triển bền vững, thúc đẩy
công bằng xã hội, lan tỏa các giá trị nhân văn tiến bộ của nhân loại.
Đó
không chỉ là đường lối đối ngoại. Đó là lựa chọn văn minh, lựa chọn đạo lý.
Một
lần nữa, xin cảm ơn tất cả các nhà khoa học, các nhà Việt Nam học, các chuyên
gia, các đồng chí và các bạn đã dành tâm huyết cho Việt Nam, đã đồng hành cùng
Việt Nam trong suốt nhiều năm qua và có mặt tại Hà Nội hôm nay.
Chúng
tôi trân trọng, biết ơn và kỳ vọng nhiều ở các bạn.
Xin
chúc các quý vị sức khỏe, hạnh phúc và nhiều cảm hứng nghiên cứu mới về Việt
Nam, một Việt Nam độc lập, tự cường, đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền
vững trong kỷ nguyên mới.
Xin
trân trọng cảm ơn".
Ảnh.
TTXVN
0 nhận xét: