Cách mạng
Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại, sâu sắc nhất trong lịch sử. Bởi, đó là
“Cuộc cách mạng biết tự bảo vệ”, là ngọn cờ giải phóng nhân loại khỏi áp bức
bóc lột; “ngôi sao chỉ đường” để Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta
làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong đấu tranh bảo vệ thành
quả cách mạng, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Kế thừa, phát
triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vũ trang quần chúng, bảo vệ
thành quả cách mạng và kinh nghiệm rút ra từ sự thất bại của Công xã Pari năm
1871 (chỉ tồn tại 72 ngày do giai cấp công nhân “chưa trưởng thành về chính trị”,
khi bảo vệ chính quyền chưa triệt để dẫn đến thất bại), vì vậy, ngay trong đêm
thắng lợi đầu tiên của Cách mạng Tháng Mười (25/10/1917), Đại hội Xô viết toàn
Nga lần thứ II đã thông qua Sắc lệnh hòa bình, tuyên bố: nước Nga Xô viết rút
khỏi cuộc chiến tranh và đề nghị các nước tham chiến nhanh chóng chấm dứt các
hoạt động quân sự, tiến hành đàm phán để đi tới ký kết một hòa ước dân chủ và
công bằng. Nhưng các nước đế quốc thuộc phe Hiệp ước đều bỏ qua đề nghị đó, buộc
nước Nga Xô viết phải tiến hành đàm phán riêng rẽ và ký Hiệp định đình chiến với
Đức, ngày 02/12/1917; theo đó, các hoạt động quân sự chấm dứt và hai bên bắt đầu
thảo luận những điều kiện để ký hòa ước. Song, lợi dụng tình trạng còn non yếu
của nước Nga Xô viết, tại bàn thương lượng, phái đoàn Đức đã đưa ra yêu sách có
tính xâm lược và nô dịch: Nga phải chuyển giao cho Đức một vùng lãnh thổ rộng tới
150 nghìn ki lô mét vuông (gồm Ba Lan, Litva và một phần Bêlarút; tách Ucraina
khỏi Nga). Tuy nhiên, Trốtky - người dẫn đầu phái đoàn Nga đã không chấp hành
chỉ thị của V.I. Lênin là phải ký ngay hòa ước theo những điều kiện của Đức và
tuyên bố bác bỏ yêu sách của nước này. Chỉ chờ có vậy, quân đội Đức mở đợt tấn
công vào hướng thủ đô Petrograd nhằm lật đổ Chính quyền Xô viết..
Trước tình thế
“lâm nguy”, V.I. Lênin gửi điện cho Beclin chấp nhận những yêu sách của Đức,
nhưng họ im lặng và tiếp tục tấn công. Cùng lúc đó, nội bộ Đảng Bônsêvích xuất
hiện hai nhóm đối lập: đa số Ban Chấp hành Trung ương cùng hai Đảng bộ chủ chốt
là Petrograd và Mátxcơva đều không đồng ý với chủ trương ký hòa ước của Lênin.
Chỉ sau nhiều lần kiên trì giải thích trên các diễn đàn, Lênin mới nhận được sự
chấp nhận có tính ủy thác: được toàn quyền giải quyết các vấn đề chiến tranh và
hòa bình, nhưng không có nghĩa Ban Chấp hành Trung ương đồng ý ký hòa ước. Theo
đó, lệnh tổng động viên được công bố, thanh niên nhập ngũ, tiến ngay ra mặt trận;
chỉ sau khi bị chặn đứng trước thành Petrograd, Đức mới đồng ý trở lại bàn đàm
phán. Ngày 03/3/1918, Hòa ước Brest – Litov được ký kết với những điều kiện nặng
nề hơn trước (Nga phải cắt đi một lãnh thổ rộng tới 750 nghìn kilômét vuông; phải
giải ngũ quân đội và bồi thường cho Đức 06 tỉ Mác). Theo Lênin, đây là một “hòa
ước bất hạnh”, nhưng hết sức cần thiết để giữ vững Chính quyền Xô viết và có được
một thời gian hòa bình quý báu để củng cố, chuẩn bị lực lượng. Đúng như dự đoán
của Lênin, đầu tháng 11/1918, cuộc cách mạng tư sản đã diễn ra ở Đức và giành thắng
lợi, nước Nga Xô viết ngay lập tức tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Brest – Litov, quyết
tâm khôi phục lại lãnh thổ và dân cư của đất nước theo kịch bản đã dự định. Từ
đây, nước Nga bước vào cuộc chiến chống can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc
cùng với những cuộc bạo loạn của các tướng tá Bạch vệ. Chỉ sau ba năm (1918 -
1920) chiến đấu ngoan cường dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích,
nhân dân các dân tộc Nga lần lượt đánh bại các cuộc nổi loạn và can thiệp vũ
trang của kẻ thù, mở ra khả năng mới cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, làm sáng rõ vấn đề cơ bản của
cuộc cách mạng: “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp
hơn nhiều”; “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”; quá
trình đó, đôi khi phải chấp nhận một “bước lùi” với những điều kiện cay đắng.
Những bước đi
thành công trong tiến trình bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga đã trở
thành động lực mạnh mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống lại
ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản; đồng thời, thúc đẩy phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế phát triển. Nhờ đó,
giai cấp vô sản vững tin bước lên vũ đài chính trị với tư cách là giai cấp
trung tâm của thời đại. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh
cho rằng: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp
năm châu,... Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý
nghĩa to lớn và sâu xa như thế”. Người khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đây là cơ sở tiền
đề để lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945.
Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, Việt Nam có hoàn cảnh tương đồng với nước Nga Xô viết sau
Cách mạng Tháng Mười: nằm trong vòng vây của các thế lực thù địch trong và
ngoài nước (quân Tưởng khi sang Việt Nam kéo theo đám phản động người Việt là Đảng
Việt Quốc, Việt Cách với mục tiêu “tiêu diệt Cộng sản”; ở miền Nam quân viễn
chinh Pháp núp bóng quân Anh để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá bỏ
thành quả cách mạng và ủ mưu đưa quân ra miền Bắc thiết lập trở lại chế độ thực
dân cũ). Tuyên bố trước thế giới về tính tất yếu và chính nghĩa của nhiệm vụ tự
bảo vệ thành quả cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Thấm nhuần luận điểm của V.I. Lênin
“một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”; đồng thời, rút ra
kinh nghiệm từ bài học bảo vệ thành quả cách mạng của Cách mạng Tháng Mười, Đảng
ta đã chủ trương thực hiện nhiều sách lược nhằm bảo vệ vững chắc chính quyền
còn non trẻ (khi thì hòa hoãn với Tưởng để chĩa mũi nhọn vào thực dân Pháp, khi
lại tạm hòa hoãn với Pháp để đối phó với quân Tưởng), như: sách lược “giao thiệp
thân thiện, nhân nhượng, tránh xung đột” với đội quân Trung Hoa Dân quốc; đối với
Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Ngày 06/3/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ; theo đó, Chính phủ
Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có ngoại
giao, quân đội, tài chính và nghị viện riêng,... nằm trong Liên bang Đông Dương
và Khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để 15.000
quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa Dân quốc làm tiếp nhiệm vụ tước
vũ khí và hồi hương quân Nhật. Ngày 09/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ
thị “Hòa để tiến”, giải thích việc ký Hiệp định sơ bộ và xác định chủ trương
hòa hoãn với Pháp để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt. Sự nhân
nhượng có nguyên tắc với thực dân Pháp trong việc ký Hiệp định Sơ bộ
(06/3/1946), Tạm ước (14/9/1946) đã thể hiện khát vọng hòa bình và có thời gian
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Điều này đã khẳng
định bản chất cách mạng, khoa học của luận điểm “một cuộc cách mạng chỉ có giá
trị khi nào nó biết tự vệ” của V.I. Lênin; đồng thời, minh chứng bài học về củng
cố và giữ vững chính quyền Xô viết của Cách mạng Tháng Mười Nga là ánh sáng rọi
chiếu và trở thành động lực tinh thần để Đảng và Nhân dân ta vững bước tiến
lên, vượt qua mọi gian lao, thử thách, làm lên mốc son chói lọi trong dòng chảy
lịch sử bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”
năm 1954, tác động mạnh đến phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình lãnh đạo công cuộc bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 và cả nước từ sau Đại thắng
mùa Xuân 1975, vận dụng bài học của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng ta luôn xác
định đường lối, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, sáng tạo, bảo đảm cho Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc, tạo cơ sở hiện thực hóa mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tự bảo vệ
thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là “Ánh sáng” soi rọi sự nghiệp
đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức, mà còn định hướng sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự thật đó là không thể phủ nhận. Tuy nhiên,
các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu trong thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX, ra sức xuyên tạc chủ nghĩa
Mác - Lênin, bóp méo lịch sử, mưu toan xóa bỏ tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga với các luận điệu: chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời; chủ
nghĩa xã hội đã chấm dứt; Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ là “cuộc nổi dậy
mang tính chất Nga thuần túy”; việc thiết lập Nhà nước công - nông Xô viết là
“đi chệch” quy luật phát triển chung của xã hội loài người, v.v.
Song, sự
xuyên tạc của họ chỉ là công “dã tràng”. Bởi, thực tiễn đã minh chứng dù thời
cuộc có nhiều chuyển biến, nhưng luận điểm “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị
khi nào nó biết tự vệ” vẫn còn nguyên giá trị. Ghi nhớ lời chỉ dẫn của V.I.
Lênin “hãy nhớ rằng chúng ta không được phép lơi là một giây phút nào trong việc
bảo vệ công nhân và nông dân của ta và bảo vệ những thành quả của họ”, đòi hỏi
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kiên định, tiếp tục vận dụng linh hoạt, sáng
tạo những vấn đề cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tập trung xây dựng cả tiềm
lực và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm
cơ sở, nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. “Kiên quyết, kiên
trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa,… phát hiện sớm
và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến;
đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch”. Đặc biệt, luôn nhận thức, quán triệt sâu sắc luận điểm của V.I.
Lênin: “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”, coi đó là một
nguyên tắc bất biến trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa./.
0 nhận xét: