Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ là sự lắp ghép cái đuôi
xã hội chủ nghĩa vào “cơ thể” kinh tế thị trường vốn có của chủ nghĩa tư bản(?!).
Đó là kết hợp giữa “nước” và “lửa” nên là không thể(?!). Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là Việt Nam đang “âm thầm xoay trục”
theo con đường tư bản chủ nghĩa(?!). Sự thật có phải như vậy không?
Đặc trưng, vai trò, tính tất yếu của “khâu
trung gian” của sự phát triển tự nhiên, xã hội,…
Trong phép biện
chứng của sự phát triển, “khâu trung gian” được coi là mắt khâu tất yếu giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các giai đoạn phát triển trong cùng một sự vật,
hiện tượng. Nhà triết học vĩ đại người Đức, Ph. Hê-ghen, cho rằng, các dạng
khác nhau của tồn tại, đòi hỏi những dạng trung gian hóa của chính chúng, hoặc
chứa đựng trong bản thân chúng những dạng ấy. Ph. Ăng-ghen cho rằng: “Phép biện
chứng thừa nhận trong trường hợp cần thiết là bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là”
thì có cả cái này lẫn cái kia”, “thực hiện sự môi giới giữa các mặt đối lập”(1).
Trong quá trình vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, sự chuyển
hóa từ sự vật này thành sự vật khác đều phải thông qua những “khâu trung gian”.
Đặc trưng của
“khâu trung gian”, về mặtkết cấu, gồm những mặt, những bộ phận, những yếu tố,
những quá trình khác nhau, đối lập nhau, cùng tồn tại đan xen với nhau, thâm nhập
vào nhau, đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau. Trong đó, những nhân tố mới, tiến bộ
bao giờ cũng đóng vai trò định hướng, chi phối, định hình sự vật mới, ngược lại,
những nhân tố cũ sẽ dần trở thành bảo thủ, lạc hậu và chúng chỉ mất đi khi những
điều kiện cho nó tồn tại không còn nữa. Chính vì sự đan xen tồn tại, đấu tranh
với nhau giữa cái mới và cái cũ đã làm cho sự vật mới chiến thắng sự vật cũ rất
khó khăn. Do vậy, ở trạng thái “trung gian” quá độ ấy, khuynh hướng phát
triển của sự vật cũng trở nên phức tạp, thiếu ổn định, có cả sự tiến lên lẫn thụt
lùi, cả sự tiến bộ lẫn thoái bộ, thậm chí sự vật còn “tròng trành, nghiêng ngả”,
nhưng mang trong mình sức mạnh của tất yếu, cuối cùng cái mới sẽ chiến thắng
hoàn toàn cái cũ.
“Khâu trung
gian” có vai trò tất yếu trong quá trình giải quyết mâu thuẫn
giữa các mặt đối lập, quá trình phủ định biện chứng và sự chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng.
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăng-ghen cho rằng: “tất cả các mặt
đối lập đều thông qua những khâu trung gian mà chuyển hóa lẫn nhau”, “thực hiện
sự môi giới của các mặt đối lập”(2). Điều đó cho thấy vai trò tất yếu
của “khâu trung gian” là thực hiện được sự chuyển hóa từ mặt đối lập này thành
mặt đối lập kia, bằng cách “dung hợp” các mặt đối lập trong những hình thức nhất
định. Do vậy, “khâu trung gian” đóng vai trò là những tiền đề, điều kiện làm
“môi giới” cho sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập, thông qua đó mâu thuẫn được
giải quyết. Quan điểm siêu hình thường tuyệt đối hóa sự đối lập giữa các mặt,
cho nên trong khi tiến hành giải quyết mâu thuẫn, họ mưu toan muốn “thoát khỏi”
tình trạng mâu thuẫn bằng cách vứt bỏ giản đơn một trong các mặt đối lập của
mâu thuẫn, trong khi lại xem mặt kia như một chỉnh thể “phi” mâu thuẫn. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng không những vạch ra nguồn gốc, động lực của mâu thuẫn
mà còn chỉ rõ vấn đề có tính quy luật trong quá trình giải quyết mâu thuẫn.
Xem xét vấn đề
lý luận và phương pháp luận giải quyết mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH), V.I. Lê-nin cho rằng cần phải học ở chủ nghĩa Mác cách
“làm thế nào và khi nào có thể và cần phải kết hợp các mặt đối lập,… trong thực
tiễn chúng ta đã nhiều lần thống nhất các mặt đối lập”(3). Vì vậy, nếu
sự chuyển hóa của các mặt đối lập là phương thức để giải quyết mâu thuẫn của sự
vật thì “khâu trung gian” là những điều kiện tất yếu để các mặt đối lập đấu
tranh, chuyển hóa và giải quyết mâu thuẫn. Đây là vấn đề có ý nghĩa về lý luận
và phương pháp luận rất lớn trong việc giải quyết các mâu thuẫn, nhất là các
mâu thuẫn xã hội.
Quá trình
phủ định của phủ định, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
không phải là sự thay thế giản đơn cái này bằng cái khác mà phải thông qua những
“vòng khâu” liên hệ, “vòng khâu” của sự phát triển, trong đó cái cũ và cái mới
kết hợp với nhau, tác động vào nhau, vừa kế thừa, vừa phủ định để cuối cùng cái
mới được khẳng định. Đối với mọi quá trình phủ định diễn ra trong tự nhiên, xã
hội và tư duy, “khâu trung gian” đóng vai trò là cơ sở, là điều kiện để cái mới
và cái cũ kết hợp với nhau, thâm nhập vào nhau, vừa kế thừa, vừa lọc bỏ, tạo
nên khuynh hướng phát triển vừa tiến lên, vừa lặp lại thông qua vô số những lần
phủ định.
Đối với
quá trình chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, “khâu
trung gian” cũng có vai trò quan trọng trong quá trình nhảy vọt về chất. Đó là
một trạng thái tồn tại tất yếu của sự vật trong quá trình chuyển hóa từ chất cũ
sang chất mới, trong đó chất cũ và chất mới đan xen, thâm nhập vào nhau, đấu
tranh với nhau, thông qua đó cái cũ bị lọc bỏ và chuyển hóa thành cái mới. Bất
kỳ một hình thức nhảy vọt nào dù “đột biến” hay “dần dần” đều thông qua “khâu
trung gian” để thực hiện bước quá độ từ chất cũ sang chất mới, “khâu trung gian
là cơ sở, điều kiện tất yếu để bước nhảy vọt có thể xảy ra, không qua “khâu
trung gian” thì nhảy vọt chỉ còn là một “phép lạ””.
Sự tồn tại của
“khâu trung gian” mang tính tất yếu và phổ biến trong
sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quá trình tiến hóa giống
loài sinh vật luôn tồn tại những loài có đặc điểm của “khâu trung gian”. Trong
lĩnh vực xã hội, biểu hiện của những “khâu trung gian” cũng vô cùng phổ biến.
Trong tài liệu “Những hình thức có trước sản xuất tư bản chủ nghĩa” chuẩn bị
cho viết tác phẩm Bản thảo kinh tế, C. Mác phân tích đặc điểm của
các hình thức kinh tế quá độ trong lịch sử, như công xã nông thôn, phương thức
sản xuất châu Á, kinh tế trang ấp phong kiến, kinh tế diêu dịch (ở Nga), kinh tế
phường hội… và nhận xét rằng, về bản chất chúng có đặc điểm của “khâu trung
gian” quá độ giữa hình thái kinh tế – xã hội trước lên hình thái kinh tế – xã hội
sau. Trong lĩnh vực chính trị, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin cũng chỉ
ra không ít những “khâu trung gian” quá độ như chế độ dân chủ chủ nô thời kỳ cổ
đại, trong đó vừa chứa đựng những hình thức làm chủ cộng đồng của công xã tự quản
và chế độ chủ nô quý tộc của chế độ nô lệ, kể cả chế độ chuyên chế phương Đông
cũng được các ông coi là hình thức chính trị “trung gian” quá độ từ chế độ công
xã tự quản lên chế độ quân chủ phong kiến.
Các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin phân tích đặc biệt sâu sắc tính chất “khâu trung
gian” trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là thời
kỳ mà trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có sự đan xen tồn tại giữa những “mảnh
đoạn” của xã hội cũ cùng với những yếu tố của xã hội mới đang ra đời nhưng còn
non yếu, chúng kết hợp với nhau, thâm nhập vào nhau, đấu tranh với nhau, do đó,
mọi hình thức phát triển đều mang đặc trưng, đặc điểm của cả xã hội cũ và xã hội
mới. Về mặt kinh tế, còn nhiều hình thức tổ chức phù hợp với trình
độ phát triển sản xuất, như V.I. Lê-nin chỉ rõ trong thời kỳ quá độ ở bất kỳ nước
tư bản chủ nghĩa nào khi đi lên CNXH cũng gồm ba thành phần cơ bản: kinh tế xã
hội chủ nghĩa (XHCN), kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế hàng hóa nhỏ. Đặc biệt,
đối với những nước tiền tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản chưa phát triển thì cơ cấu
kinh tế còn đa dạng, phức tạp hơn, bao gồm cả các thành phần kinh tế sản xuất
nhỏ – tự cấp, tự túc. Về chính trị, sự tồn tại của các
thành phần kinh tế quy định sự tồn tại của những lực lượng, giai cấp xã hội có
lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập nhau, vừa liên minh, vừa đấu tranh với
nhau, vì thế trong thời kỳ quá độ, mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp sẽ trở
nên gay gắt và phức tạp hơn. Trong lĩnh vực ý thức xã hội, những tư
tưởng bảo thủ, lạc hậu và phản động của chế độ cũ chưa thể mất đi ngay mà còn
tiếp tục cản trở sự ra đời của ý thức tư tưởng tiến bộ.
Trong những
di sản lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, “chính sách kinh tế mới – NEP” có ý
nghĩa về mặt lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, đó không chỉ là phép
biện chứng của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH mà còn là một “học
thuyết” về nhận thức và vận dụng “khâu trung gian” để “bắc những chiếc cầu nhỏ”
xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước để đi lên CNXH đối với những nước còn chưa
đủ điều kiện chín muồi. Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, những người cộng sản
Nga đứng đầu là V.I. Lê-nin đã thi hành chính sách “cộng sản thời chiến” để quá
độ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng sau một thời gian ngắn, chính sách ấy đã
bộc lộ những hạn chế, sai lầm to lớn, đó là xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế
và nền sản xuất hàng hóa để xác lập nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa, tiến hành tổ
chức sản xuất và phân phối trực tiếp theo kế hoạch của chính quyền Xô-viết. Hậu
quả là sản xuất đình đốn, đời sống xã hội cực kỳ khó khăn, CNXH đứng bên bờ vực
sụp đổ. Thực chất chính sách kinh tế “cộng sản thời chiến” là mô hình kinh tế
“quá độ” trực tiếp tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản, không qua những “khâu
trung gian”, những hình thức quá độ. Và chính sách kinh tế mới là mô hình kinh
tế quá độ, rốt cuộc đã được tìm ra từ những sai lầm về đường lối cách mạng chủ
quan, duy ý chí. V.I. Lê-nin khẳng định dứt khoát rằng, không nghi ngờ gì nữa,
một nước trong đó nền sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có
thể thực hiện cách mạng XHCN bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt,
hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển. Áp dụng những biện
pháp quá độ “đặc biệt” đó, nghĩa là phải nắm lấy những mắt xích trung gian, những
bậc thang, những hình thức quá độ cụ thể để thực hiện sự “môi giới” giữa xã hội
cũ và xã hội tương lai. V.I. Lê-nin cũng chỉ ra những hình thức kinh tế trung
gian, quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước, kinh tế hợp tác xã và các hình thức
kinh tế cá thể, tiểu chủ… tạo thành nền kinh tế với nhiều thành phần; chủ
trương khôi phục nền sản xuất hàng hóa, thương mại, cơ chế thị trường đi đôi với
sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ của nhân dân và chính quyền Xô-viết. Đáng tiếc,
sau khi V.I. Lê-nin mất, chính sách kiểu “cộng sản thời chiến” lại được duy
trì, trở thành mô hình kinh tế chung của các nước XHCN. Lịch sử một lần nữa lặp
lại sai lầm và dẫn tới sự khủng hoảng, đổ vỡ của hệ thống XHCN, và cũng một lần
nữa “Chính sách kinh tế mới” của V.I. Lê-nin được kế thừa và phát triển trong
điều kiện mới, đem lại sức phát triển mạnh mẽ và những thành tựu to lớn cho các
nước XHCN, trong đó có nước ta. Phải chăng đây là vấn đề có tính quy luật?
“Khâu trung gian” trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nước ta đi
lên CNXH từ một nước nghèo, kém phát triển, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh
tàn phá nên thời kỳ quá độ sẽ rất lâu dài và khó khăn, phức tạp. Do chưa nhận
thức đầy đủ và sâu sắc những đặc điểm của nước ta trong thời kỳ quá độ, nên
trong một thời kỳ dài chúng ta đã phạm phải sai lầm, khuyết điểm, nóng vội xóa
bỏ ngay các thành phần kinh tế “phi” XHCN, hạn chế sản xuất hàng hóa và cơ chế
thị trường, đồng thời duy trì quá lâu mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao
cấp. Một trong những thành tựu có tính chất đột phá trong quá trình đổi mới của
Đảng ta là phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Đó là kết quả của
quá trình tìm tòi, đổi mới, sáng tạo, liên tục được bổ sung và phát triển trong
nhận thức lý luận của Đảng và đã được kiểm nghiệm bởi những thành tựu rất to lớn
trong thực tiễn hơn 35 năm đổi mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định,
KTTT định hướng XHCN “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế,
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(4).
Về mặt lý
luận, quan niệm về phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta chính
là kết quả của sự nhận thức và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ và con đường đi lên CNXH, trong đó lý luận về
“khâu trung gian” trong sự phát triển xã hội có ý nghĩa rất quan trọng về
phương pháp luận trong nhận thức và vận dụng để xác lập mô hình kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước ta, phù hợp với quy luật lịch sử – tự nhiên.
Về mặt lịch
sử, quá trình phát triển của các nền văn minh trên thế giới cho thấy sản
xuất hàng hóa đã có mầm mống hình thành trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô
lệ và phong kiến, nhưng chỉ đạt đến trình độ nền KTTT trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Bản thân nền KTTT tư bản chủ nghĩa cũng có những hình thức,
trình độ phát triển khác nhau. Do tranh thủ được những thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại mà chủ nghĩa tư bản ngày nay đã không ngừng hiện đại hóa lực
lượng sản xuất và điều chỉnh quan hệ sản xuất, thúc đẩy quá trình xã hội hóa và
toàn cầu hóa kinh tế, cho nên KTTT ở một số nước đã đạt tới trình độ hiện đại.
Tuy nhiên, do bản chất của chủ nghĩa tư bản dù là loại thị trường nào cũng
không thể loại bỏ được khuyết tật vốn có của nó, đó là tính tự phát, khủng hoảng
kinh tế, cạnh tranh đổ vỡ, về xã hội là sự bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo,
khuyến khích chủ nghĩa thực dụng, chạy theo lợi ích cá nhân,… Mặc dù KTTT tư bản
chủ nghĩa đã phát triển đến trình độ hiện đại nhưng trong khuôn khổ phương thức
sản xuất và bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể nào khắc phục được những
hạn chế vốn có của mình.
Với tinh thần
kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu CNXH, Đảng
ta không ngừng tìm tòi, đổi mới con đường đi lên phù hợp với thực tiễn Việt Nam
và bối cảnh thời đại ngày nay. Tổng kết lý luận và thực tiễn phát triển nền
KTTT định hướng XHCN sau 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định:
“Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận
quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(5). Sự ra đời
của KTTT dưới CNXH lúc đầu như là sự phủ định mô hình kinh tế tập trung, quan
liêu, bao cấp nhưng trong quá trình đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
lý luận, Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về nền
KTTT định hướng XHCN, phù hợp với quy luật khách quan và đã được thực tiễn kiểm
nghiệm bằng những thành tựu to lớn sau 35 năm đổi mới. Có thể nói, những thành
công không thể phủ nhận của mô hình KTTT định hướng XHCN đã có sức hấp dẫn và ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước đã và đang phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng KTTT
không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản mà nó là mô hình kinh tế tổng
quát của nhiều chế độ xã hội khác nhau. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
kiểu KTTT, mặc dù chưa phải hoàn thiện, nhưng nó khác về bản chất với nền KTTT
tư bản chủ nghĩa. Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, “Đó là một kiểu
kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường;
một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối”(6).
Kinh tế thị
trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Về bản chất, đó là “khâu trung gian” trong sự phát triển kinh tế.
Diễn đạt về tính chất “khâu trung gian” của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây không phải là nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa đầy đủ (vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ)”(7). Với tư cách
là “khâu trung gian”, KTTT định hướng XHCN ở nước ta có những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Một là,
trong kết cấu của nền kinh tế có sự tồn tại đan xen của nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu khác nhau, tiêu biểu cho các phương
thức sản xuất của xã hội tư bản, tiền tư bản và CNXH. Trong đó, kinh tế nhà nước
và chế độ công hữu mới được xác lập, đang trong quá trình phát triển để giữ vai
trò chủ đạo đối với nền kinh tế; kinh tế tư nhân vẫn còn là động lực quan trọng
của nền kinh tế; trong điều kiện nền sản xuất nhỏ còn phổ biến, kinh tế hộ cá
thể vẫn còn đóng vai trò nhất định, góp phần ổn định đời sống xã hội; ngoài ra,
còn tồn tại những thành phần kinh tế hỗn hợp, kinh tế tập thể, hợp tác xã… Sự tồn
tại của nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường là một đặc
trưng khách quan của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Hai là, trong
nền KTTT các thành phần kinh tế luôn tác động qua lại, thâm nhập vào
nhau để chuyển hóa. Trong nền kinh tế của nước ta hiện nay, các thành phần
kinh tế tác động qua lại, thâm nhập vào nhau, từ đó mà hình thành các hình thức
kinh tế hỗn hợp mang tính chất “trung gian” quá độ. Ngay cả các thành phần kinh
tế cơ bản, đại diện cho phương thức sản xuất mới XHCN cũng chưa thể tồn tại độc
lập mà chịu sự tác động của các thành phần kinh tế khác, đồng thời nó cũng thâm
nhập vào quan hệ sản xuất, chi phối các thành phần kinh tế khác. Do vậy, có thể
coi mọi loại hình kinh tế, mọi thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta đều là những hình thức “trung gian”, quá độ. V.I. Lê-nin coi những
hình thức kinh tế quá độ được tạo ra từ sự tác động qua lại, thâm nhập của các
thành phần kinh tế là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ông cho rằng, nó
là cái gì có tính chất tập trung, được kiểm soát và được xã hội hóa, cho nên chủ
nghĩa tư bản nhà nước là nấc thang tất yếu chuyển nền kinh tế
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa và từ sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa lên CNXH, và đó là “phòng chờ” để đi lên CNXH, là nấc thang lịch sử mà giữa
nó và CNXH không còn nấc thang nào ở giữa cả.
Ba là, bản
thân các hình thức kinh tế “trung gian” quá độ tồn tại trong các mối quan hệ
chính trị, kinh tế – xã hội, chịu sự tác động của các nhân tố khách quan, chủ
quan, tự phát, tự giác, bên trong và bên ngoài…, những nhân tố đó quy định
khuynh hướng vận động, phát triển khác nhau của nền KTTT. Đóng vai trò định hướng
và định hình phương thức sản xuất XHCN đối với các hình thức kinh tế quá độ trước
hết là nhân tố thuộc nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trong chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước XHCN. Bản chất
XHCN trong nền KTTT là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính
sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá
trình phát triển”(8). Cùng với những nhân tố chính
trị, vai trò định hướng XHCN đối với nền KTTT ở nước ta còn được thực hiện
thông qua kinh tế nhà nước. Vai trò định hướng và định hình của kinh tế nhà nước
không chỉ thông qua các doanh nghiệp nhà nước mà còn bằng các nguồn lực kinh tế
nhà nước, được sử dụng để thâm nhập vào các thành phần kinh tế khác, làm công cụ
đòn bẩy, điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, thông
qua đó, từng bước định hình phương thức sản xuất mới tiến bộ. Mặt khác, nền
KTTT trong thời kỳ quá độ của nước ta đang trong quá trình định hình nên còn chịu
sự tác động, cản trở của “mặt trái”, tính tự phát, bảo thủ của các nhân tố cũ,
kể cả những sai lầm chủ quan có thể mắc phải trong lãnh đạo, quản lý. Vì vậy,
không có gì ngạc nhiên khi khuynh hướng vận động của nền KTTT định hướng XHCN vẫn
còn gặp phải những khó khăn, trắc trở, thậm chí còn vấp phải sự khủng hoảng,
suy thoái nhất thời. Tuy nhiên, đó là những “đau đớn” tạm thời khó tránh khỏi của
sự “sinh nở” một phương thức sản xuất mới mà vai trò “bà đỡ” là Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.
Như vậy, lý
luận về “khâu trung gian” và phép biện chứng của thời kỳ quá độ cho chúng ta những
luận cứ xác đáng để kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch về nền KTTT định hướng XHCN. Đồng thời, qua đây chúng ta càng nhận thức
rõ hơn, sâu sắc hơn, để tiếp tục kiên định và quyết tâm thực hiện thắng lợi mục
tiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN và con đường đi lên CNXH do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo./.
0 nhận xét: