Những đợt trừng phạt, cấm vận “chưa từng có tiền lệ” liên tục áp đặt đối với các chủ thể pháp nhân cũng như cá nhân thuộc nước Nga. Thậm chí, sau những diễn biến mới nhất xoay quanh chiến dịch quân sự đặc biệt mà Nga đang tiến hành ở Ukraine, các đợt trừng phạt này vẫn có thể tiếp diễn với cường độ gay gắt hơn nhiều.
Song, câu hỏi
đặt ra là liệu những biện pháp ấy sẽ đạt được hiệu quả đến mức độ nào?Và, cái
giá mà bên áp đặt phải trả sẽ là những gì?
Màu xám nào
trên xứ bạch dương?
Chắc chắn nền
kinh tế Nga sẽ phải chịu đựng và cố tìm cách vượt qua những thương tổn trong
trung hạn và dài hạn. Tuy vậy, thật đáng kinh ngạc, theo tạp chí nổi tiếng The
Economist, dường như những tác động ngắn hạn từ các biện pháp trừng phạt kinh tế
chưa được như kỳ vọng của Mỹ và các nước phương Tây.
Mỹ đã cấm xuất
khẩu nhiều loại hàng hóa sang Nga. Các công ty, tập đoàn quốc tế lần lượt rút
khỏi đây, từ các loại xe ô tô “hàng hiệu”, iPhone đến “Gà rán KFC”… Một số quốc
gia đóng băng 60% dự trữ quốc tế của Ngân hàng Trung ương Nga. Đặc biệt, Mỹ và
phương Tây đã dùng nhiều cách để hạn chế nguồn thu từ dầu mỏ, vốn chiếm tỷ trọng
đáng kể trong nền kinh tế của xứ bạch dương. Mục tiêu của họ là gây sức ép tối
đa lên chính quyền Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Một tuần sau
khi chiến sự bùng nổ, tỷ giá đồng Ruble so với đồng USD đã giảm tới 30%. Giá cổ
phiếu nhiều công ty Nga lao dốc. Những viễn cảnh u ám được khuếch đại trong những
ngày đầu ấy, để dư luận thế giới có cảm giác rằng nền kinh tế Nga sẽ nhanh
chóng sụp đổ.
Song, khi những
cuộc giao tranh kéo dài sang đến tuần thứ ba, đã có khá nhiều diễn biến thực tế
không giống như những dự báo ấy nữa. Theo The Economist, tại Nga, bất ổn
dường như đã tạm lắng. Giá trị đồng Ruble phục hồi gần đến mức trước xung đột.
Chỉ số chuẩn của chứng khoán Nga cũng nhúc nhích tăng trở lại. Chính phủ và hầu
hết doanh nghiệp đang thực hiện thanh toán bằng trái phiếu ngoại tệ.Từng đua
nhau rút tiền khỏi các ngân hàng với tổng trị giá gần 3.000 tỷ Ruble (31 tỷ
USD), song giờ đây người dân đã bắt đầu gửi tiền trở lại.
Sự ổn định
này đến từ hàng loạt chính sách ổn định thị trường của Moscow. Ngân hàng Trung
ương Nga đã tăng lãi suất từ 9,5% lên 20% và khuyến khích người dân gửi tiền
vào tài khoản. Các nhà xuất khẩu phải chuyển đổi 80% số tiền thu được từ ngoại
hối thành đồng Ruble. Chính phủ Nga cũng áp đặt các lệnh cấm bán khống, đồng thời
cấm những người không cư trú bán cổ phiếu, ít nhất là đến tháng 4-2022.
Đồng Ruble mất
giá, các doanh nghiệp nước ngoài rời đi nhưng không phải mặt hàng nào trên thị
trường cũng tăng giá.GDP của Nga, tính đến ngày 26-3, ước tính cao hơn 5% so với
năm trước.Các dữ liệu “thời gian thực” khác như mức tiêu thụ điện và tải hàng
hóa bằng đường sắt cũng đang tăng lên. Công cụ theo dõi chi tiêu của Sberbank –
ngân hàng cho vay lớn nhất của Nga – cho thấy con số tăng nhẹ so với cùng kỳ
năm ngoái.
Rõ ràng, nước
Nga đang ứng phó khá chủ động và hiệu quả với những lệnh trừng phạt dồn dập đổ
xuống mình. Thực ra, cũng phải nói rằng Moscow đã có “kinh nghiệm dày dạn” với
việc “chiến đấu trong vòng vây” như thế này. Kể từ sự kiện sáp nhập bán đảo
Krym năm 2014, vẫn luôn có những “cuộc chiến không tiếng súng” (tức là các cuộc
chiến tranh kinh tế – thương mại) được duy trì giữa nước Nga với phương Tây (nhất
là với nước Mỹ).
Do đó, thứ nhất,
tâm trạng của người dân Nga cũng không còn quá dễ trở nên bất an để dẫn tới những
xáo trộn quá lớn trong hệ thống kinh tế – xã hội. Thứ hai, sự “giàu có” về tài
nguyên bảo đảm cho nền kinh tế Nga không bị lâm vào tình trạng quá phụ thuộc
vào các hàng hóa nhập khẩu. Thứ ba, cũng chính bởi sự “giàu có” ấy, quốc gia xuất
khẩu khí đốt hàng đầu thế giới và xuất khẩu dầu mỏ thứ hai thế giới (theo số liệu
mới nhất đầu năm 2022 của trang World Population Review) sẽ rất khó bị “triệt
đường làm ăn” hoàn toàn, thông qua việc bán các nguồn năng lượng hóa thạch.
Bất chấp các
lệnh trừng phạt chưa từng có, Moscow vẫn bán tới 10 tỷ USD tiền dầu khí mỗi
tháng cho các khách hàng nước ngoài, tương đương với 1/4 xuất khẩu dầu mỏ trước
xung đột Nga-Ukraine nổ ra. Chưa kể, Nga còn là nhà cung cấp lúa mỳ lớn nhất thế
giới, cũng như đủ sức khuynh đảo thị trường phân bón thế giới.
Bởi vậy, dù
“thương tích đầy mình” thì việc nền kinh tế Nga “sụp đổ hoàn toàn” và dẫn đến
những hệ quả chính trị chấn động vẫn là một mệnh đề để ngỏ. Không cần phải là một
chuyên gia phân tích quốc tế, bất cứ ai cũng có thể liên tưởng: Cuba, CHDCND
Triều Tiên, Venezuela hay Iran cũng từng phải đối diện với những lệnh cấm vận cực
kỳ khắc nghiệt. Song, điều đó chưa từng ép được họ khuất phục.
Ngược lại,
giới quan sát cũng chưa kịp quên rằng trong những năm cuối thập kỷ trước, Liên
minh châu Âu (EU) từng khốn khổ thế nào khi bị cuốn vào cuộc “thương chiến Mỹ –
Nga”.
Lịch sử dường
như đang lặp lại, qua không ít dấu hiệu rõ ràng. Thí dụ, ngày 3-4, Bộ trưởng
Kinh tế Slovakia Richard Sulik tuyên bố: “Nguồn cung cấp khí đốt từ Nga không
thể bị ngừng lại. Do đó, mặc dù điều này nghe có vẻ quá thực dụng nhưng nếu có
điều kiện thanh toán (khí đốt của Nga) bằng đồng Ruble (theo quy định từ phía
Nga), chúng tôi sẽ trả bằng đồng Ruble”. Ông cũng lưu ý: Bratislava đang mua
khoảng 85% lượng khí đốt của nước này từ Nga. Theo ông, mặc dù việc đa dạng hóa
nguồn cung cấp sẽ có lợi cho nước này, song phải mất vài năm để đạt được mục
tiêu ấy.
Trước đó,
ngày 28-3, Bộ trưởng Kinh tế và Khí hậu Đức Robert Habeck khẳng định: Berlin
không thể cấm vận năng lượng Nga ngay lập tức, vì chi phí cho doanh nghiệp cũng
như người dân là quá lớn. Giải thích ngắn gọn về điều này, ngày 23-3, Thủ tướng
Đức Olaf Scholz khẳng định trước Quốc hội Liên bang: “Trong ngắn hạn, nước Đức
chưa thể từ bỏ nguồn cung cấp năng lượng từ Nga”. Ông viện dẫn nguyên tắc các lệnh
trừng phạt không được gây tổn hại cho các quốc gia châu Âu nhiều hơn so với Nga
và chỉ ra rằng: nếu loại bỏ nguồn cung năng lượng từ Nga, “hàng trăm nghìn việc
làm sẽ gặp rủi ro, toàn bộ các ngành công nghiệp sẽ đứng trước bờ vực” và điều
đó sẽ đẩy Đức cũng như toàn bộ châu Âu rơi vào một cuộc suy thoái.
Đó không chỉ
là nỗi ám ảnh đè nặng lên cả nền kinh tế “đầu tàu” của EU là Đức, lẫn những nền
kinh tế vệ tinh như Slovakia. Bên kia Đại Tây Dương, do thiếu hụt nguồn cung dầu
thô từ Nga (cũng như do không thuyết phục được các nước OPEC tăng sản lượng),
giá xăng ở Mỹ đã lên đến xấp xỉ 6,5 USD/gallon (so với 4 USD/gallon cùng kỳ năm
ngoái.
Nhằm ổn định
thị trường, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã phải quyết định mở cửa kho dự trữ dầu mỏ
chiến lược quốc gia – điều ngay lập tức bị phe đối lập chỉ trích dữ dội.
Có lẽ, ông chủ
Nhà Trắng không còn lựa chọn nào khác, bởi nếu để giá dầu quốc tế cứ mãi ở mức
đỉnh, mọi chi phí sản xuất cũng như vận tải sẽ tăng cao và chắc chắn nền kinh tế
số 1 thế giới sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng (trong khi các quốc gia “thân thiện” với
Nga, như Trung Quốc hay Ấn Độ thì hưởng lợi). Vấn đề đặt ra là: Đến lúc kho dự
trữ chiến lược ấy cạn kiệt mà các biện pháp cấm vận, trừng phạt vẫn chưa phát
huy tác dụng như mong đợi thì nước Mỹ có thể làm gì tiếp theo?
Một câu hỏi
hoàn toàn không dễ trả lời. Như phân tích của hãng Bloomberg, ước tính Nga có
thể thu về khoảng 321 tỷ USD từ xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt trong năm 2022,
tăng 30% so với năm 2021 và chỉ có lệnh cấm vận năng lượng của các nhà nhập khẩu
lớn mới có thể thay đổi tình hình. Còn ngân hàng đa quốc gia Goldman Sachs dự
báo: Nga sẽ đạt thặng dư 205 tỷ USD trong năm 2022, điều có thể cho phép Ngân
hàng Trung ương Nga đáp ứng nhu cầu ngoại hối của khu vực tư nhân và nới lỏng
kiểm soát vốn.
Theo thông
tin từ phía Nga cố tình hé lộ, dù thúc giục các đồng minh cấm vận, Mỹ vẫn âm thầm
mua trữ khoảng 100.000 thùng dầu mỗi ngày từ Nga. Dù đúng dù sai, điều này càng
khắc họa rõ thêm tính “lưỡng bại câu thương” mà cuộc chiến tranh kinh tế mang lại,
đồng thời tô đậm thêm những nỗi ám ảnh với các nước bị cuốn vào vòng xoáy ấy:
Giá nhiên liệu tăng, giá lương thực tăng, chi phí sản xuất tăng, lạm phát phi
mã…
Tất nhiên, nền
kinh tế Nga cũng sẽ phải nhận những vết thương. Và, hàng loạt quốc gia đang cố
gắng tránh cho mình tiếp tục bị “trở thành con tin” bất đắc dĩ khi phụ thuộc
quá mức vào một nguồn cung năng lượng. Song, tất cả những tiến trình ấy đều
không thể hoàn tất trong một sớm một chiều.
Điều tốt đẹp
nhất trước mắt có thể mong chờ, vẫn chỉ là một giải pháp “đình chiến” nhằm ổn định
tình hình thông qua con đường ngoại giao.
0 nhận xét: