1. Quan niệm
và tiêu xác định quan điểm sai trái, thù địch
1.1. Quan niệm
về quan điểm sai trái, thù địch
Theo Từ
điển tiếng Việt, “quan điểm”: 1 điểm xuất phát quy
định hướng suy nghĩ, cách xem xét, đánh giá về một sự vật, hiện tượng nào đó: Quan
điểm giai
cấp; có quan điểm sống đúng đắn. 2 cách nhìn, cách suy
nghĩ: Trình bày rõ quan điểm của mình; bất đồng quan điểm[1].
Còn “sai trái”
là không đúng, không phù hợp với lẽ phải: việc làm sai trái, hành động
sai trái[2].
Như vậy, sai trái có cả ở trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Sai
trái trong nhận thức, được biểu hiện ở những hiểu biết (tri thức) không đúng,
sai lầm. Những tri thức này trái với những tri thức đúng, tức là trái với chân
lý.
Quan điểm sai
trái là những quan điểm không đúng về mặt khoa học và thực tiễn. Đó là loại
quan điểm có nội dung phản khoa học, phi thực tiễn. Quan điểm sai trái thể hiện
ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở góc độ chính trị xã hội, đó là những
quan điểm sai trái có liên quan đến vấn đề giai cấp, nhà nước, đảng phái chính
trị… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quan điểm sai trái, có thể do trình độ nhận
thức còn thấp, do ngộ nhận, do phương pháp nhận thức không đúng của chủ thể,…
Theo Từ
điển tiếng Việt, “thù địch” là kẻ ở phía đối lập, có mối hận thù một cách
sâu sắc: những phần tử thù địch, hai người là thù địch của nhau; chống
đối lại một cách quyết liệt vì lẽ sống còn: thái độ thù địch[3].
Quan điểm thù địch, trước hết là quan điểm sai trái, nhưng đối lập về lợi ích và
lập trường giai cấp của một chủ thể với một chủ thể khác. Chủ thể của quan điểm
thù địch thường là chủ thể đối lập về lập trường tư tưởng, chính trị, về lợi
ích giai cấp, quốc gia, dân tộc. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến quan điểm thù địch
là do đối lập nhau về lợi ích và lập trường giai cấp, nguyên nhân trực tiếp là
do mục đích, động cơ của chủ thể.
Quan điểm sai
trái, xét về mặt lập trường giai cấp, tuy không phải là quan điểm thù địch,
nhưng trong những trường hợp cụ thể, có thể có quan điểm sai trái cụ thể trùng
với quan điểm thù địch. Trong những trường hợp này, chủ thể của quan điểm sai
trái là đồng minh tự nhiên của chủ thể có quan điểm thù địch tương tự. Nhưng
ngay cả ở đây, lập trường của hai chủ thể này là hoàn toàn khác nhau. Họ chỉ ngẫu
nhiên có sự “gặp nhau” về mặt quan điểm. Rõ ràng, cùng một nội dung quan điểm
giống nhau, nhưng động cơ và mục đích của các chủ thể là hoàn toàn khác nhau.
Do đó, không thể đánh đồng bản chất cũng như mục đích của các quan điểm là như
nhau.
Đối với chúng
ta, quan điểm sai trái, thù địch là tập hợp những quan điểm không đúng về khoa
học và thực tiễn; đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp công nhân – dân tộc
Việt Nam. Những quan điểm của các chủ thể (cá nhân, tổ chức…) gây nên những
tác hại về mặt nhận thức, tư tưởng trong xã hội, làm tổn hại đến lợi ích của quốc
gia – dân tộc và nhân dân Việt Nam; chống lại Đảng Cộng sản, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xâm hại an ninh quốc gia, đến độc lập, tự chủ, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam… được xem là quan điểm sai trái, thù địch.
Quan điểm sai
trái có thể là của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Quan điểm thù địch là quan điểm
của các thế lực thù địch. Nhưng, như trên đã nói, quan điểm sai trái cũng có thể
trở thành quan điểm thù địch khi mức độ sai trái trở nên nghiêm trọng, nó không
còn là sai trái về mặt nhận thức, quan điểm mà chuyển thành sai trái trong cả lập
trường chính trị, lợi ích giai cấp. Khi đó chủ thể của quan điểm sai trái tự trở
thành chủ thể của quan điểm thù địch, dù không mong muốn, và vô hình trung họ
rơi vào vị trí của “các thế lực thù địch” về mặt quan điểm. Quan điểm (tư tưởng)
hướng dẫn hành động. Những quan điểm sai trái, bất kể là của ai, nếu không được
uốn nắn, sửa chữa kịp thời, sớm hay muộn cũng sẽ hướng chủ thể của nó tới những
hành động thực tiễn để thực hiện quan điểm đó trên thực tế. Khi đó quan điểm
sai trái không còn thuần túy là quan điểm mà nó đã được hiện thực hóa, thực tiễn
hóa trong đời sống xã hội ở những mức độ khác nhau.
Cũng cần thấy rằng,
các thế lực thù địch không phải lúc nào, cũng không phải họ chỉ toàn có quan điểm
thù địch đối với chúng ta, mặc dù giữa họ và chúng ta đối lập nhau về lợi ích,
về lập trường, quan điểm giai cấp. Song có thể giữa chúng ta và họ vẫn có những
quan điểm tương đồng, chung, giống nhau. Thậm chí họ có thể có những quan điểm
tích cực, tiến bộ mà chúng ta có thể kế thừa, tiếp thu, nếu biết gạt bỏ những định
kiến giai cấp hẹp hòi, thiển cận. Điều này có ý nghĩa phương pháp luật rất quan
trọng: khi phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không được tách
rời quan điểm với nhân thân chủ thể quan điểm đó, nhưng cũng không được đồng nhất
tuyệt đối quan điểm với nhân thân chủ thể của nó. Bản thân “các thế lực thù địch”
cũng là một khái niệm “động” và “mở”. Nó không cố định cho một đối tượng bất biến
nào, mà luôn có sự vận động, chuyển hóa biện chứng, có thể hôm nay chủ thể này
là bạn với ta nhưng ngày mai cũng có thể là thế lực thù địch và ngược lại.
Song, để nhận diện rõ các thế lực thù địch thì phải dựa trên một nguyên tắc nhất
quán là: bất cứ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của chúng
ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là thế lực thù địch. Điều này
càng có ý nghĩa sâu sắc hơn trong điều kiện hiện nay khi chúng ta chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng, với phương châm “thêm
bạn, bớt thù” để góp phần giữa vững nền độc lập, tự chủ của đất nước.
1.2. Tiêu
chí xác định quan điểm sai trái, thù địch
Thứ nhất, quan
điểm đó không đúng về mặt khoa học, nghĩa là nó không phản ánh một vấn đề khoa
học thực sự, không mang lại một giá trị khoa học thực sự; đối tượng mà nó phản
ánh là không rõ ràng; mang nặng tính chủ quan, thiên kiến, tư biện và thiếu
tính khách quan khoa học trong phương pháp xem xét; luận giải thiếu tường minh,
ngụy biện, thiếu tính tin cậy.
Thứ
hai, quan điểm đó không đúng về mặt thực tiễn. Ở đây không phải là thực
tiễn chung chung trừu tượng, cũng không phải là thực tiễn mù quáng hay thực tiễn
của những cá nhân hoặc nhóm người đơn lẻ. Đó là thực tiễn cách mạng sáng tạo và
đổi mới của đất nước, dân tộc và nhân dân; là thực tiễn được soi sáng, dẫn dắt
bởi lý luận tiên phong của thời đại; là thực tiễn phổ quát được lặp lại “hàng
nghìn triệu lần” bởi đông đảo quần chúng nhân dân đã và đang tiến hành hoạt động
một cách hữu ích và hiệu quả vì sự phát triển của đất nước, sự tiến bộ xã hội.
Thứ
ba, quan điểm đó không đúng về mặt chính trị (lập trường giai cấp). Về
thực chất, quan điểm đó không xuất phát từ lợi ích, lập trường của giai cấp
công nhân, của dân tộc Việt Nam; đi ngược với lợi ích quốc gia – dân tộc và
nhân dân ta. Hoặc có đại diện cũng chỉ là đại diện cho nhóm nhỏ, bộ phận, không
phải đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân, nhân dân hay toàn bộ quốc gia –
dân tộc Việt Nam.
2. Một số dạng
quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối
của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Từ quan niệm và
dựa vào các tiêu chí trên đây, có thể nêu một số dạng quan điểm sai trái, thù địch
chống phá nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta hiện
nay:
2.1. Dạng thứ
nhất: Phủ nhận hoàn toàn, hoặc phủ nhận những nội dung cơ bản chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta (phủ định sạch trơn và phủ định có chủ đích,
có chọn lọc)
Mục đích: Tấn
công vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò nền tảng
tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta, đòi thay chủ nghĩa Mác – Lênin bằng hệ tư tưởng
khác; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đả kích chế độ xã hội
chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhằm hướng lái đất nước ta đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Về nội dung:
Tấn công vào những nội dung cốt lõi, những giá trị căn cốt của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụ
thể:
– Phủ định
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong triết học:
Họ phê phán phép biện chứng duy vật mácxít là phương pháp đại ngụy biện, “nói
thế nào cũng được”. Phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội – xương sống
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Họ cho rằng hình thái kinh tế – xã hội chỉ là một
lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được, theo
đó, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, Liên Xô là một tất yếu, được
dự báo trước, có căn nguyên từ lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội nói trên.
Phủ nhận học thuyết đấu tranh giai cấp của C. Mác, phủ nhận vai trò động lực đấu
tranh giai cấp trong xã hội có sự phân chia giai cấp. Phủ nhận lý luận mácxít về
con người: cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đề cao quyền tập thể, phủ nhận quyền
cá nhân, tức phủ nhận quyền con người.
Trong kinh tế
chính trị: Phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, cho rằng học thuyết
đó không còn đúng trong điều kiện hiện nay, khi mà chủ nghĩa tư bản đã tự điều
chỉnh và thích nghi, quan tâm nhiều hơn tới người lao động, quan hệ bóc lột giữa
tư bản và lao động cũng không còn như trước nữa, công nhân cũng không còn là
“vô sản” như trước đây, một bộ phận công nhân đã gia nhập tầng lớp trung lưu,
có mức sống khá. Ở nhiều nước tư bản, một số công nhân đã có cổ phần và trở
thành cổ đông trong các công ty cổ phần, họ cũng là một thành phần tham dự phân
phối lợi nhuận, v.v..
Trong chủ nghĩa
xã hội khoa học: Phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Cho rằng giai
cấp công nhân không có đủ trình độ, năng lực và điều kiện để lãnh đạo xã hội.
Cho chủ nghĩa xã hội khoa học là học thuyết “viển vông”, đem áp dụng vào thực tế
chỉ sinh ra những “quái thai của lịch sử”. Mô hình chủ nghĩa xã hội mà C. Mác
đưa ra là “ảo tưởng”, không bao giờ thực hiện được.
– Phủ định
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một mặt, họ cho
rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc, không phải là người mácxít,
không theo chủ nghĩa cộng sản; chỉ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm phương tiện. Mặt
khác, lại hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho Hồ Chí Minh không có tư tưởng
riêng, chỉ cóp nhặt tư tưởng của những người khác. Cả hai quan niệm này đều phủ
định mối liên hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với một trong những nguồn gốc hình
thành của nó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Do đó, về thực chất, các quan điểm này đều
nhằm phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.
– Công kích,
xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng ,chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.
Tập trung phủ
nhận con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội; ca ngợi chủ nghĩa tư bản và con đường tư bản chủ nghĩa. Họ cho rằng:
“Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường vòng quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa tư bản”. Sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, có quan điểm cho rằng, hiện nay ở các nước này đang thực hiện một bước “quá
độ ngược từ chủ nghĩa xã hội về chủ nghĩa tư bản” (!). Cùng với phủ nhận con đường
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, họ cũng phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các quan điểm sai trái, thù địch
cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa là một thứ định hướng “tù mù”, “hư ảo”, vì
xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản muốn hướng đến là một xã hội không có
thực, chính chủ thể định hướng là Đảng Cộng sản cũng còn chưa hình dung được nó
là như thế nào (!). Do đó, nên gác lại mục tiêu xã hội chủ nghĩa và trở về với
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là con đường đúng đắn nhất.
Phê phán pháp
luật Việt Nam, các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận tính hợp hiến, hợp
pháp và tính chính đáng về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; tập trung phủ
nhận Điều 4 trong Hiếp pháp năm 2013 của nước ta quy định Đảng Cộng sản Việt
Nam lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Các quan điểm này cho rằng
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã hết vai trò lịch sử. Đảng cầm quyền là không
chính đáng, vì không được bầu lên.
Về phương thức: Tấn
công trực tiếp/trực diện vào nền tảng tư tưởng và quan điểm, đường lối của Đảng
ta và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Kích hoạt các hành động “phản
kháng” trong xã hội đối với các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước. Đồng nhất bản chất của Đảng ta với những hiện tượng biểu hiện sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên
thoái hóa, biến chất, từ đó quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm thuộc về Đảng, phủ
nhận công lao của Đảng. Một số sử dụng các chiêu thức quen thuộc: ngụy biện,
công kích nói xấu, bôi đen, suy diễn vô căn cứ, hạ bệ thần tượng đối với cá
nhân các lãnh tụ của Đảng Cộng sản.
2.2. Dạng thứ
hai: Chia cắt các bộ phận, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chia cắt tư tưởng của các nhà kinh điển; chia cắt tư tưởng
Hồ Chí Minh với quan điểm của Đảng ta
Mục đích: Làm
mất/phá vỡ tính chỉnh thể, tính liên tục phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận từng mảnh, từng bộ phận và tiến tới phủ nhận
toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho bên tiếp nhận
thông tin có định hướng tư duy sai lầm, dẫn đến những nhận định, quan điểm sai
lầm.
Nội
dung: Đem đối lập tư tưởng của C. Mác thời trẻ và tư tưởng C. Mác lúc
trưởng thành. Đối lập tư tưởng của C. Mác với tư tưởng của Ph. Ăngghen; tư tưởng
của C. Mác và Ph. Ăngghen với tư tưởng của V. I. Lênin. Đối lập tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin: cắt rời mối liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ
nghĩa Mác – Lênin, cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp
với thực tiễn hiện nay, không phù hợp với Việt Nam, chỉ nên dựa vào tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tách rời hoặc đối lập những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin với những
người phát triển về sau, muốn xoá bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin. Hoặc giả đề
cao tư tưởng của người này phủ nhận tư tưởng của người kia, thực chất là phủ định
tất cả. Chẳng hạn, lợi dụng đề cao tư tưởng (dân tộc) Hồ Chí Minh để đòi xóa bỏ
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về mối liên hệ
giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với quan điểm, đường lối của Đảng ta, các quan điểm
sai trái, thù địch cố tách rời hoặc phủ nhận mối liên hệ hữu cơ này. Họ cho rằng
Đảng ta lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, “kim chỉ nam” cho hành động, song
thực chất chỉ là “bình phong”, “lá chắn” cho những hành động sai trái, Đảng
“nói vậy mà không phải vậy” (!). Trên thực tế, Đảng đang ngày càng rời xa tư tưởng
Hồ Chí Minh, không làm đúng những “di huấn”, những “chỉ dẫn” của Người (!). Họ
cho rằng, “con đường Bác Hồ đã chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa
xã hội”, “Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là không đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn”(!).
Phương thức: Tìm
những điểm khác biệt trong tư tưởng của các nhà kinh điển để so sánh với nhau,
từ đó đối lập hoá tư tưởng của các nhà kinh điển, làm cho tư tưởng của họ trở
nên trái ngược và mâu thuẫn với nhau, bất chấp điều kiện lịch sử, hoàn cảnh ra
đời của những tư tưởng đó; che giấu, xuyên tạc mối liên hệ lôgích nội tại, tính
chỉnh thể – toàn vẹn và xu hướng phát triển có sự bao hàm và kế thừa nhau trong
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng của các nhà kinh điển, cũng như giữa
các nhà kinh điểm với nhau.
2.3. Dạng thứ
ba: Xuyên tạc, bóp méo nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Mục đích: Làm
cho nhiều người (do trình độ lý luận thấp) không phân biệt được đúng sai; đánh
đồng các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là như nhau, và về mặt bản chất là
sai.
Nội
dung: Tấn công vào những tư tưởng của các nhà kinh điểm trước đây đúng
và hiện nay vẫn đúng và vẫn còn giá trị lâu dài, – đó là những nguyên lý nền tảng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt tập trung vào những
tư tưởng trước đây đúng nhưng hiện nay có biểu hiện không phù hợp với thực tiễn
mới và một số tư tưởng cụ thể đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, đặc biệt thực
tiễn ở Việt Nam cần phải bổ sung, hoàn thiện; những tư tưởng ngay từ thời các
nhà kinh điển còn sống đã thừa nhận là không đúng và những tư tưởng trước kia
chúng ta nhận thức chưa đúng, cần phải nhận thức lại cho đúng.
Phương thức:
Tiến công từ “điểm” đến “diện”; pha trộn, cắt xén, khoét sâu vào những tư tưởng
của các nhà kinh điển có biểu hiện không phù hợp với thực tiễn mới cần phải bổ
sung, hoàn thiện hoặc đã bị thực tiễn mới vượt qua. Từ đó rút ra kết luận rằng:
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp
với thực tiễn, với thời đại, không nên tin và đi theo.
2.4. Dạng thứ
tư: Đem đối lập một cách siêu hình, phiến diện và khiên cưỡng lý luận và thực
tiễn để vừa phủ nhận lý luận khoa học vừa phủ nhận thực tiễn cách mạng của
chúng ta; đánh đồng những hạn chế của lý luận và thực tiễn; dùng những sai lầm,
hạn chế của thực tiễn do chủ quan của chúng ta để làm căn cứ phủ định lý luận,
cho lý luận đang cản đường thực tiễn
Mục
đích: Phủ nhận đối với Đảng, Nhà nước ta trên cả hai bình diện lý luận
và thực tiễn, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vai trò quản
lý của Nhà nước ta.
Nội
dung: Dùng lý luận để phê phán thực tiễn của Đảng, Nhà nước ta; đồng
thời dùng thực tiễn để kiểm chứng phản bác lý luận, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.
Phương thức:
Ngụy biện, lợi dụng những yếu kém, hạn chế của chúng ta cả trong công tác lý luận
và thực tiễn tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước để tập trung chống phá, hạ thấp, phủ nhận những thành tựu mà
chúng ta đã đạt được; “thổi phồng, bơm to” những khuyết điểm, yếu kém của chúng
ta.
Nhận diện, nhận
dạng các quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, quan điểm,
đường lối của Đảng, Nhà nước ta chính là “chỉ mặt, gọi tên” và làm “hiện hình”
nguyên bản các quan điểm sai trái, thù địch. Đây là một quá trình không hề dễ
dàng, không làm một lần là xong, mà luôn phải được bổ sung, phát triển. Bởi lẽ,
nhận thức là một quá trình “đi sâu một cách vô hạn”, ngày càng tiệm cận đầy đủ,
sâu sắc về bản chất đối tượng mà nó phản ánh. Hơn nữa, các quan điểm sai trái,
thù địch cũng không phải là bất biến, mà bản thân nó cũng vận động, biến hình,
biến dạng để thích ứng với mọi điều kiện, hoàn cảnh và tình hình mới. Chủ thể của
các quan điểm sai trái, thù địch cũng không ít thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để
“phù phép”, “biến hóa” các quan điểm của họ, kể cả “giả danh”, “khoác áo” của
chúng ta để chống lại chính chúng ta. Để nhận dạng đúng các quan điểm sai trái,
thù địch, cần phải dựa chắc vào thế giới quan và phương pháp luận mácxít, đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc,
bình tĩnh, tỉnh táo xem xét, xử lý thấu đáo vấn đề; không được đơn giản, hời hợt,
vội vàng.
0 nhận xét: