31/5/22

Các cơ quan dân cử phải thường xuyên đối thoại để gần người dân hơn

         Chủ tịch nước đề nghị các cơ quan dân cử phải lắng nghe ý kiến nhân dân một cách nghiêm túc để phản ánh vấn đề còn tồn tại tới cơ quan chức năng sớm giải quyết. Ngày 11/5, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh đã có buổi tiếp xúc cử tri huyện Hóc Môn, Củ Chi và thành phố Thủ Đức trước Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. 

Tại các buổi tiếp xúc, nhiều cử tri bày tỏ vui mừng khi nhận được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của các đại biểu Quốc hội, đặc biệt là Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc khi góp ý, chỉ đạo và tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư vào hai huyện Hóc Môn, Củ Chi.

Hội nghị giúp các huyện nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư, với số vốn cam kết đầu tư rất lớn gần 17 tỷ USD. Đây là kết quả có ý nghĩa đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội hai huyện cũng như giải quyết việc làm cho người dân, tạo cực tăng trưởng mới cho Thành phố Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, cử tri bày tỏ cảm động khi Chủ tịch nước đã kêu gọi nhiều nhà tài trợ để tài trợ 1.000 căn nhà tình thương cho các hộ gia đình khó khăn tại hai huyện.

Cử tri mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội để theo dõi, đôn đốc các dự án sớm được triển khai và đi vào cuộc sống. 

Cử tri đã phản ánh nhiều vấn đề nổi cộm hiện nay liên quan đến đời sống người dân như vấn đề giáo dục, đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà ở cho người thu nhập thấp… Đồng thời, kiến nghị Trung ương sớm có cơ chế, chính sách đặc thù để thành phố Thủ Đức phát triển tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Một số vấn đề còn tồn tại xung quanh Khu đô thị mới Thủ Thiêm cũng được cử tri phản ánh tại hội nghị.

Các cử tri đánh giá cao Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động cụ thể, lắng nghe ý kiến của cử tri thành phố để chuẩn bị các nội dung trước kỳ họp thứ 3 của Quốc hội.

Đối với các vấn đề lớn của đất nước, các cử tri bày tỏ quan tâm đến kết quả Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, trong đó có vấn đề về đất đai, tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng không có vùng cấm.

Cử tri Phạm Tiến Chánh bày tỏ Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã đưa ra lộ trình, kế hoạch nhằm đưa ra điều tra, xét xử nhiều vụ án, cho thấy quyết tâm của Đảng, Nhà nước.

Cử tri cả nước rất hài lòng về hoạt động tích cực của Đảng, Nhà nước thời gian qua, đặc biệt là phục hồi kinh tế sau đại dịch và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và  giữ nghiêm kỷ cương phép nước.

Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao cử tri Thành phố Hồ Chí Minh nêu nhiều vấn đề tâm huyết đối với sự phát triển của thành phố và đất nước, trong đó có 18 ý kiến của cử tri hai huyện Củ Chi, Hóc Môn; 15 ý kiến của các cử tri thành phố Thủ Đức.

Các ý kiến tập trung vào các vấn đề như xử lý quy hoạch treo, xử lý các dự án chậm tiến độ; thúc đẩy các dự án cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội; vấn đề phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chính sách đối với người cao tuổi, vấn đề an sinh xã hội, vấn đề về giáo dục, bạo hành trong gia đình…

Ngay tại hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu lãnh đạo các địa phương và Thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp giải đáp các vấn đề cử tri nêu ra, đồng thời có chương trình làm việc tiếp theo để trả lời cử tri cụ thể các vấn đề còn tồn đọng.  

Đáng chú ý, với tư cách là Chủ tịch nước, Đại biểu Quốc hội của Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố, đặc biệt là bí thư các quận, huyện và thành phố Thủ Đức phải thường xuyên lắng nghe, đối thoại, giải quyết các vấn đề cử tri quan tâm một cách hợp tình hợp lý, đúng pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng quyền lợi của người dân.Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc với cử tri tham dự hội nghị. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Theo ông Hoàng Tùng, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Thủ Đức, những vấn đề còn tồn tại ở Khu công nghệ cao thành phố và Khu đô thị mới Thủ Thiêm vẫn là vấn đề rất khó khăn dù Thành phố Hồ Chí Minh đã tập trung giải quyết thời gian dài.

Sau khi có kết luận của Thanh tra Chính phủ, thành phố Thủ Đức đã xây dựng khu tái định cư hoán đổi đất cho dân và đang tìm hướng xác định tỷ lệ hoán đổi phù hợp.

Liên quan đến những vấn đề tồn tại ở khu vực 5 khu phố, 3 phường thuộc Khu đô thị mới Thủ Thiêm, ông Tùng cho biết, hiện Thanh tra Chính phủ đã ban hành kết luận và tới đây sẽ có buổi đối thoại, tiếp xúc của Thanh tra Chính phủ với người dân.

Đây là vấn đề khó khăn do có nhiều khác biệt về ý kiến giữa các bên, thành phố Thủ Đức cùng các cơ quan sẽ giải quyết với quyết tâm cao nhất, vì sự phát triển của Khu đô thị Thủ Thiêm và của Thành phố Hồ Chí Minh.

Về Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, lãnh đạo Thành phố Thủ Đức cho biết hiện thành phố đang triển khai nhóm chính sách đặc thù theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và chỉ đạo của nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình.

Đến nay vẫn đang tháo gỡ từng bước, các trường hợp còn khúc mắc đang được rà soát lại.

Tuy nhiên, thành phố cố gắng trong năm nay sẽ hoàn tất việc bàn giao nền đất cho bà con đối với các trường hợp đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, để bà con ổn định nhà cửa, đời sống.

Đối với đề xuất cơ chế đặc thù cho thành phố Thủ Đức, hiện đã thực hiện qua 11 lần dự thảo Nghị quyết. Dự kiến trong năm nay, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế phát triển thành phố Thủ Đức.

Đây là tiền đề, cơ sở pháp lý quan trọng để thành phố Thủ Đức vận hành đúng tiềm năng, đáp ứng nguyện vọng của người dân thành phố.

Trả lời các vấn đề cử tri nêu ra, Chủ tịch nước đề nghị: “Các cơ quan dân cử, nhất là Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc… phải lắng nghe ý kiến nhân dân một cách nghiêm túc để phản ánh vấn đề còn tồn tại tới cơ quan chức năng sớm giải quyết, đảm bảo hoạt động bình thường của người dân. Nếu làm tốt, người dân sẽ gắn bó hơn với chính quyền. Do đó, trách nhiệm của cán bộ với cử tri, với người dân cần phải nâng cao hơn nữa,” Chủ tịch nước lưu ý.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao sự nỗ lực của người dân, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã làm tốt nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19, công tác an sinh xã hội và có tốc độ hồi phục nhanh, trở lại nhịp sống bình thường sau đại dịch.

Đối với hai huyện Củ Chi và Hóc Môn, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho biết Hội nghị xúc tiến đầu tư vào huyện Củ Chi và Hóc Môn đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới đầu tư trong nước và quốc tế.

Một trong những nhiệm vụ hiện nay là cần tập trung tháo gỡ các vấn đề đặt ra để các chủ trương xúc tiến đầu tư đi vào hiện thực, nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy hoạch. Không chỉ đầu tư phát triển kinh tế mà còn đảm bảo an sinh xã hội.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cũng lưu ý Thành phố Hồ Chí Minh còn rất nhiều trở ngại, khó khăn. Vì vậy, thành phố cần phát triển năng động, phát triển dẫn đầu cả nước, phát triển toàn diện kinh tế-xã hội, phát triển bền vững, đặc biệt chăm lo đời sống của khoảng 10 triệu người dân.

Theo Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, các vấn đề đường thủy, đường bộ, đường cao tốc kết nối với những địa phương khác… là những vấn đề cần tháo gỡ cho sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có hai huyện Củ Chi và Hóc Môn.

Vì vậy, thành phố cần triển khai mạnh mẽ, hiệu quả các chương trình tái cấu trúc kinh tế đã được phê duyệt; hướng đến mô hình nền kinh tế sáng tạo; cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh. Đồng thời, cần huy động nguồn lực trong xã hội, chú trọng hơn nữa hợp tác công-tư, tháo gỡ nút thắt ở từng dự án.

Ngoài ra, thành phố cần rà soát, hoàn thiện toàn bộ quy hoạch đô thị sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển đô thị hiện đại như đã đề ra. Đồng thời cần giải quyết rốt ráo những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri trong các vụ việc gây bức xúc xã hội….

Đánh giá cao cử tri quan tâm đối với các công việc của đất nước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho biết tại hội nghị Trung tương 5 vừa kết thúc, một trong những nội dung quan trọng là tiếp tục nêu các chủ trương quản lý chặt chẽ về đất đai cũng như khơi thông nguồn lực đất đai phục vụ phát triển đất nước; thảo luận và thống nhất về vấn đề cử tri quan tâm là thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Chủ tịch nước cũng cho biết Trung ương đã thảo luận vấn đề xây dựng đảng cơ sở, theo đó “từng đảng viên, từng chi bộ là tế bào tốt nhất của Đảng để lãnh đạo quần chúng, lãnh đạo nhân dân. Đảng viên đi trước, làng nước theo sau, chi bộ phải mạnh, phải nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, vận động quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước,” Chủ tịch nước nói.

“Trung ương đã thảo luận có nghị quyết thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở cấp tỉnh, thành phố. Chúng ta đã có Ban Chỉ đạo Trung ương làm tốt rồi, nay giao quyền cho địa phương làm, trong đó thành lập cấp tỉnh, thành phố, giao đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy làm Trưởng ban để làm việc này cho bài bản, hệ thống,” Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Về nội dung kỳ họp Quốc hội sắp tới, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thông báo Quốc hội sẽ xem xét thông qua một số công trình quan trọng như Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, Vành đai 4 Hà Nội…

Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách đặc thù cho Thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ được thảo luận tại kỳ họp lần này./.

 

Lan toả hình ảnh đẹp từ những việc làm ý nghĩa

 


Qua phong trào thi đua, học tập 6 điều Bác Hồ dạy, lực lượng Công an tỉnh Quảng Ngãi không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, TTATXH bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân mà còn làm nhiều việc tốt, góp phần xây dựng và lan tỏa hình ảnh đẹp về người chiến sĩ CAND. 

Vào chiều 6/5, khoảng 13h30, trong lúc làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, tổ công tác Công an phường Phổ Vinh, thị xã Đức Phổ (Quảng Ngãi) phát hiện trên đoạn đường tránh trung tâm thị xã Đức Phổ có một thanh niên đang đi bộ, vai đeo ba lô nhỏ trong tình trạng sức khỏe yếu nên tiếp cận hỏi thăm.

Anh thanh niên cho biết, tên là Chu Đức Thắng (35 tuổi), trú ở đội 2, thôn Quyết Tiến, xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh  Quảng Bình. Anh Thắng kể, anh vào quận Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh làm công nhân cho một cơ sở dệt bao bì và khi ở trọ đã bị trộm lấy sạch tài sản cùng giấy tờ tùy thân. Không có tiền, không người thân, anh đành quyết định đi bộ về quê với đoạn đường trên 1.300km.

“Mưa cũng như nắng, ngày nào cũng đi bộ, mệt thì dừng, ngủ, nghỉ tạm dưới hiên nhà dân, công trình bên đường. Người dân dọc đường giúp đỡ cho lương thực, nước uống để tiếp tục đi tiếp”, anh Thắng tâm sự. Sau khi xác minh thân nhân lý lịch, cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Công an phường Phổ Vinh đã đưa anh Thắng về trụ sở lo cơm nước, cho anh tắm giặt và góp tiền hỗ trợ anh về quê. Trạm CSGT Đức Phổ, Phòng CSGT Công an tỉnh Quảng Ngãi cũng đã hỗ trợ anh Thắng lộ phí và thuê xe chở anh Thắng về Quảng Bình an toàn… 

Đây không phải lần đầu tiên, CBCS Công an tỉnh Quảng Ngãi hỗ trợ người gặp hoạn nạn từ miền Nam về quê. Năm 2021, thời điểm dịch COVID-19 bùng phát diễn biến phức tạp, ngoài nhiệm vụ chuyên môn và chống dịch, CBCS Công an tỉnh Quảng Ngãi còn để lại nhiều hình ảnh đẹp trong lòng người dân bằng các hành động nhân văn, thiện nguyện. Điển hình như “tiếp sức” cấp hơn 10 nghìn suất ăn, uống cho người dân di chuyển bằng xe máy về từ TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam ngang qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Đáng chú ý là việc tổ công tác Phòng CSGT Công an tỉnh Quảng Ngãi trong lúc tuần tra đã phát hiện xe máy BKS 68M1-422.53 bên lề đường, cạnh xe là hai vợ chồng cùng đứa con nhỏ. Người vợ tên Nguyễn Thị Lợi, quê Nghệ An, trên đường từ TP Hồ Chí Minh về quê sinh nở đang lăn lộn đau bụng, có triệu chứng sắp sinh. Tổ công tác đã nhanh chóng đưa cả gia đình người phụ nữ lên xe đặc chủng đến bệnh viện để “vượt cạn”, góp phần giúp “mẹ tròn con vuông”. Hay việc CSGT Quảng Ngãi hỗ trợ thuê xe giúp anh Trần Văn Hoà (21 tuổi) trên đường đi bộ từ Đồng Nai ra Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi về quê an toàn…

Mới đây, một hành động đẹp nữa của lực lượng Công an tỉnh Quảng Ngãi đã được đăng tải lên mạng xã hội và cộng đồng mạng thi nhau “thả tim”. Clip dài 21 giây ghi lại cảnh CBCS lực lượng CSGT Công an TP Quảng Ngãi cùng người dân dọn đá rơi vãi trên đường Lê Lợi (đoạn gần bùng binh Ngã 5 mới, TP Quảng Ngãi) đã được người dân tự ghi lại…

Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ, quán triệt sâu sắc ý nghĩa chính trị của 6 điều Bác Hồ dạy CAND, không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và TTATXH mà CBCS Công an tỉnh Quảng Ngãi còn làm nhiều việc tốt, thường xuyên quan tâm hỗ trợ những gia đình gặp khó khăn, giúp đỡ người dân trong thiên tai, bão lụt, dịch bệnh… Những việc làm dù nhỏ nhưng có ý nghĩa thiết thực đã góp phần lan tỏa, xây dựng hình ảnh đẹp về người chiến sĩ CAND “Vì Nhân dân phục vụ”…

 

Giải pháp bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa trong kỷ nguyên số

            Bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong đó, các cơ quan, tổ chức thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là nòng cốt trong tổ chức xây dựng nền văn hóa dân tộc, các cơ quan an ninh là nòng cốt trong bảo vệ, chống lại sự phá hoại tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Hội thảo “Không gian mạng và sứ mệnh bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng của tuổi trẻ” do Trung ương Đoàn phối hợp với Ban Tuyên giáo T.Ư, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đài Truyền hình Việt Nam và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức.

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG – VĂN HÓA CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

An ninh tư tưởng – văn hóa là sự ổn định và phát triển bền vững của nền văn hóa, tư tưởng đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là sự phát triển bền vững của văn hóa, tư tưởng xã hội chủ nghĩa và truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố lạc hậu, lai căng. Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hóa là bảo vệ nền tư tưởng, văn hóa của chế độ xã hội chủ nghĩa, cụ thể là bảo vệ sự phát triển ổn định về tư tưởng và văn hóa đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ sự đồng thuận, nhất trí về chính trị, tinh thần trong Nhân dân; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đấu tranh có hiệu quả với các trào lưu tư tưởng, văn hóa phản động, độc hại…

Bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong đó các cơ quan, tổ chức thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là nòng cốt trong tổ chức xây dựng nền văn hóa dân tộc, các cơ quan an ninh là nòng cốt trong bảo vệ, chống lại sự phá hoại tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

KỶ NGUYÊN SỐ – THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ AN NINH TƯ TƯỞNG

Trong thời đại kỷ nguyên số, vấn đề xây dựng và bảo vệ được nền văn hóa tiên tiến, mang bản sắc riêng biệt của dân tộc đang đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đang phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức khó giải quyết, như lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số… vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hóa”.

Hiện nay, chúng ta đang trong thời kỳ của cách mạng công nghiệp 4.0 – giai đoạn phát triển rực rỡ nhất cho đến nay trong thời đại kỹ thuật số. Rất nhiều lĩnh vực đã và đang dần thay đổi phương thức tổ chức và hoạt động, trong đó có lĩnh vực tư tưởng – văn hóa cũng như công tác bảo vệ tư tưởng – văn hóa.

Thứ nhất, cơ hội để chúng ta có thể truyền tải nhanh chóng những giá trị tư tưởng, văn hóa Việt đến công chúng.

Báo cáo Digital 2022 ghi nhận tính đến tháng 2/2022, có 72,10 triệu người Việt Nam dùng internet, tương ứng với tỷ lệ thâm nhập là 73,2% dân số. Với số lượng người dùng internet tăng trưởng nhanh chóng, không gian mạng đang tạo ra một xã hội ảo tồn tại song song với xã hội thực. Hiện rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ – đối tượng có thể hấp thụ nhanh chóng về công nghệ, mong muốn được tham gia và sử dụng internet hàng ngày để không bị lạc hậu so với xã hội. Với đặc tính truyền tải nhanh và số lượng người dùng internet đông đảo như vậy, nếu biết tận dụng cơ hội, chúng ta có thể nhanh chóng truyền tải những giá trị tư tưởng, văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo đúng định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước đến đông đảo quần chúng nhân dân.

Thứ hai, cơ hội tận dụng khoa học công nghệ để sản xuất những sản phẩm văn hóa lớn, tầm cỡ, có giá trị lịch sử cùng với hiệu quả kinh tế cao. Với khoa học công nghệ hiện đại, chúng ta có thể thực hiện được những việc mà con người với lao động thủ công không thể làm được để sản xuất ra những sản phẩm tuyên truyền về tư tưởng, văn hóa, con người Việt hấp dẫn người xem, người đọc. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội để sản xuất những sản phẩm với tốc độ nhanh và chất lượng cao ở tất cả các lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.

Thứ ba, cơ hội để chúng ta có thể quảng bá văn hóa Việt ra thế giới, kiều bào ta ở nước ngoài.

Trong kỷ nguyên số, thế giới trở nên phẳng hơn, không gian mạng là không gian xuyên biên giới, chúng ta có thể tăng cường tận dụng triệt để những mặt mạnh, phát huy ưu thế, tính đến các hình thức hợp tác phù hợp để tuyên truyền, quảng bá cho đất nước; quảng bá các sản phẩm văn hóa tuyên truyền về thành tựu của Việt Nam sau hơn 36 năm đổi mới; sản phẩm tuyên truyền về chính trị, sự kiện lịch sử, cách mạng; cung cấp, đăng tải, chia sẻ và tận dụng ưu thế của hạ tầng công nghệ để quảng bá, cung cấp các sản phẩm văn hóa nhanh chóng đến đông đảo công chúng không chỉ trong nước mà ra toàn thế giới, nếu chúng ta biết phát triển sản phẩm văn hóa trên các nền tảng số. Chính vì vậy, trong thời đại kỷ nguyên số, cơ hội để chúng ta tiếp cận, quảng bá văn hóa Việt, với đậm đà bản sắc dân tộc ra thế giới, đặc biệt là kiều bào ta ở nước ngoài là rất to lớn.

Cùng với những cơ hội mà kỷ nguyên số tạo ra, công tác bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa hiện nay đang phải đối mặt với những thách thức cơ bản là:

Trước hết, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để sử dụng thành tựu về khoa học, công nghệ để gia tăng các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; chúng kiên trì thực hiện âm mưu, chiến lược thâm độc “diễn biến hòa bình”. Nội dung chống phá trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, trong đó, chúng coi phá hoại về nền tảng tư tưởng – văn hóa là mặt trận quan trọng. Cách thức chủ yếu là sử dụng các phương thức liên lạc qua ứng dụng OTT tạo các hội, nhóm kín, móc nối, lôi kéo thành viên; tổ chức các lớp học trực tuyến về “xã hội dân sự”, “dân chủ nhân quyền”, phương pháp đấu tranh bất bạo động; tổ chức các diễn đàn để tác động, chuyển hóa tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhân dân.

Thứ hai, nhiều nội dung chương trình, phim ảnh của các dịch vụ OTT(1) nước ngoài tràn vào Việt Nam có những nội dung phản cảm vi phạm quy định pháp luật, đạo đức, văn hóa, thuần phong, mỹ tục Việt Nam. Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Trong khi đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý cho công tác bảo vệ an ninh văn hóa còn gặp nhiều khó khăn do sự can thiệp, tác động, hướng lái của các nước phát triển có các nền tảng OTT lớn đang chiếm lĩnh thị phần chủ yếu trên thế giới. Một khó khăn cơ bản là các máy chủ dịch vụ OTT xuyên biên giới vào Việt Nam đều được đặt ở nước ngoài, nằm ngoài phạm vi kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước; cơ sở hạ tầng số còn chậm phát triển hơn nhiều quốc gia trên thế giới, nguồn lực tài chính phát triển còn hạn chế; chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên số còn thấp. Các doanh nghiệp OTT nước ngoài có kinh nghiệm và nguồn tài chính dồi dào, nhiều doanh nghiệp OTT nước ngoài đầu tư cả chục tỷ đô la Mỹ đế đầu tư nội dung trên dịch vụ. Việc ứng dụng công nghệ để cung cấp dịch vụ chưa bằng các OTT xuyên biên giới (doanh nghiệp OTT nước ngoài sử dụng trí tuệ nhân tạo để đánh giá thói quen người xem, gợi ý nội dung người xem căn cứ thói quen, sở thích,…) trong khi đó nhân lực trình độ cao của Việt Nam còn thiếu và yếu hoặc số ít làm việc ở nước ngoài, cho doanh nghiệp nước ngoài do chế độ đãi ngộ tốt hơn. Đặc biệt quan trọng là năng lực, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ của cán bộ tuyên truyền, sản xuất sản phẩm văn hóa còn chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Đồng thời, thách thức cơ bản thuộc về nguyên nhân chủ quan là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân chưa có bản lĩnh chính trị vững vàng; chưa thấm nhuần, hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; dễ dàng tin vào những quan điểm sai trái thù địch, những thông tin xấu độc vô căn cứ, tiếp nhận những quan điểm chính trị không phù hợp, văn hóa lai căng… Từ đó, vô tình trở thành những “cánh tay nối dài” tuyên truyền những tư tưởng, văn hóa độc hại, phá hoại an ninh tư tưởng – văn hóa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng.

“Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh…”  – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

TRIỂN KHAI MẠNH MẼ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỒNG BỘ

Nhận thức được vai trò quan trọng, có ý nghĩa sống còn của công tác bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa; đứng trước cơ hội và thách thức to lớn của kỷ nguyên số, chúng ta cần có những giải pháp đồng bộ, toàn diện để tranh thủ cơ hội và vượt qua thách thức để bảo vệ nền tư tưởng, văn hóa xã hội chủ nghĩa gắn với truyền thống và bản sắc dân tộc, với những giải pháp cơ bản sau:

Một là, các cơ quan Đảng, Nhà nước tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa trong tình hình mới:

Tiếp tục nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bản sắc văn hóa dân tộc dưới nhiều hình thức; nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững đất nước; xác định phát triển văn hoá và xây dựng con người là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Đẩy mạnh chuyển đổi số, áp dụng các công nghệ đo lường hiệu quả trong hoạt động chỉ đạo, quản lý báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản. Các đơn vị chuyên trách bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch; các đơn vị bảo vệ pháp luật phối hợp chặt chẽ, hiệp đồng tác chiến, trao đổi thông tin, kết hợp nhuẫn nhuyễn để nâng cao hiệu quả công tác nghiệp vụ trong đấu tranh với hoạt động chống phá trên không gian mạng. Tăng cường công tác nắm tình hình, chủ động sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp để thu thập thông tin cần thiết cho công tác nghiệp vụ. Xây dựng kế hoạch và phương án đấu tranh, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động chống phá. Tăng cường quản lý các sản phẩm văn hóa, thông tin nhất các nền tảng OTT xuyên biên giới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra; kiên quyết xử lý, yêu cầu gỡ bỏ ngay lập tức những nội dung, sản phẩm, thông tin vi phạm; phê phán các sản phẩm văn hóa có nội dung lạc hậu, lai căng không phù hợp với chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Việt Nam đang xây dựng. Kiên quyết xử lý nghiêm trước pháp luật những đối tượng trong nước có hành vi vi phạm pháp luật tạo sự răn đe và tăng tính nghiêm minh của pháp luật

Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật làm hành lang pháp lý hữu hiệu cho công tác bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hóa. Quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật có tính đến phương án chia sẻ dự thảo, trao đổi, thăm dò phản ứng của các nước quan tâm, tránh tạo cớ cho các đối tác quan trọng của ta gây sức ép, đặt điều kiện, tạo sự cản trở cho việc phát triển quan hệ song phương, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế xã hội.

Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút các tập đoàn, công ty công nghệ tham gia phát triển hệ thống hạ tầng dịch vụ OTT, các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng, phát triển các sản phẩm số, quảng bá các phim, ảnh tuyên truyền sự kiện chính trị, lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các sản phẩm văn hóa trên nền tảng số. Tăng cường nguồn lực, nhân lực cho mục tiêu tự chủ về an ninh mạng, xây dựng nền công nghiệp an ninh mạng để đảm bảo phục vụ tuyên truyền chính trị và văn hóa trên không gian mạng ở nước ta. Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng các chuyên gia phát triển sản phẩm văn hóa trên các nền tảng số…

Hai là, nâng cao nhận thức của người dân, nhận thức và trách nhiệm của doanh nghiệp trong xây dựng và bảo vệ nền tư tưởng – văn hóa Việt Nam

Nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường tiếp nhận thông tin tích cực, tạo “sức đề kháng” trước những luận điệu, thông tin xấu độc vô căn cứ, tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, văn hóa Việt Nam, phá hoại đại đoàn kết dân tộc; góp phần xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục trong gia đình và xã hội Việt Nam.

Các doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp truyền thông, các đơn vị sản xuất các sản phẩm văn hóa, văn nghệ trong nước tranh thủ các chương trình, dự án hỗ trợ của Nhà nước, các chính sách ưu đãi để đổi mới, sáng tạo, phát triển công nghệ, sản xuất các chương trình, sản phẩm tuyên truyền, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật có giá trị, có tầm phản ánh được những giá trị lịch sử dân tộc, sự nghiệp đổi mới gắn với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nét đẹp văn hóa, con người Việt Nam… tuyên truyền, quảng bá trong nước và ra thế giới, tạo thành dòng tư tưởng – văn hóa tích cực, chủ lưu dẫn dắt, định hướng người dân. Không tiếp tay cho các doanh nghiệp công nghệ nước ngoài có các hành vi phá hoại an ninh tư tưởng – văn hóa Việt Nam.

Ba là, phát huy vai trò xung kích, đi đầu của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa:

Tích cực học tập nâng cao trình độ để có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhận thức được tầm quan trọng của an ninh tư tưởng – văn hóa và trách nhiệm của bản thân trong bảo vệ an ninh tư tưởng – văn hóa. Đoàn viên, thanh niên phải là những người xung kích trong việc phát hiện âm mưu, thủ đoạn, nội dung, phương thức chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và nắm vững những luận cứ để trực tiếp và tổ chức đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái thù địch đó; phát huy vai trò xung kích, tinh thần hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, của tuổi trẻ Việt Nam để tuyên truyền cho nhân dân hiểu, tạo “sức đề kháng” trước những âm mưu phá hoại an ninh tư tưởng – văn hóa nước ta.

Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và ứng dụng khoa học để đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phê phán văn hóa lạc hậu, ngoại lai trên không gian mạng; xây dựng các phong trào thi đua, tích cực tham gia xây dựng, phát triển nền tư tưởng, văn hóa đất nước cũng như bảo vệ an ninh tư tưởng – văn trên không gian mạng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng diễn ra vào tháng 11/2021./.

 

Cán bộ giàu bất thường, khi kê khai tài sản lại rất ít

             Mặc dù đã có quy định về kê khai tài sản và một vài trường hợp kê khai gian dối đã bị xử lý kỷ luật nhưng dường như thiết chế này chưa hiệu quả.

Cán bộ giàu bất thường, cần giải trình rõ nguồn gốc từ đâu mà có

Thời gian qua, ở một số địa phương, không ít cán bộ giàu lên một cách nhanh chóng với khối tài sản lớn, sở hữu biệt phủ, siêu xe, vật dụng xa xỉ gây xôn xao dư luận. Mới đây, cựu quan chức một thành phố biển bị khởi tố, bắt tạm giam vì có liên quan đến vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Song, điều khiến dư luận tò mò, chú ý không phải vì quan chức này rơi vào vòng lao lý mà vì khối tài sản quá lớn của vị này, từ biệt thự mặt tiền ước đoán gần trăm tỉ đồng cùng dàn cây cảnh độc, lạ và dàn 4 xe sang bị tạm giữ.

Nhiều ý kiến đặt câu hỏi, với khối tài sản “khủng” này, khi đương chức vị cán bộ này có kê khai hay không? Cơ quan chức năng có kiểm soát được khối tài sản này không?

Theo ông Lê Quốc Lý – nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, xã hội khuyến khích mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân trở nên giàu có một cách chính đáng. Nếu làm giàu bằng sự năng động, sáng tạo để tạo ra của cải vật chất, góp phần làm giàu cho xã hội, cho đất nước thì phải được khuyến khích nhân rộng và công khai cho công luận được biết. Ngược lại, nếu cán bộ, đảng viên nào “giàu bất thường” thì cơ quan chức năng cần làm rõ khối tài sản từ đâu mà có. Nếu tài sản có được từ các nguồn thu nhập không hợp pháp, từ tham ô, tham nhũng thì cần xử lý nghiêm, tịch thu sung công quỹ theo quy định.

“Để cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thành công theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì cơ quan chức năng cần vào cuộc một cách nghiêm túc để chứng minh nguồn gốc tài sản của cán bộ có được từ đâu. Nếu do tham nhũng mà có thì phải tịch thu, xử lý nghiêm minh; còn nếu không chứng minh được thì phải chấp nhận tài sản của cán bộ” – ông Lý nêu quan điểm.

Nguyên PGĐ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, một trong những “gốc rễ” của việc ngăn chặn hành vi tham ô, tham nhũng, tiêu cực chính là phải kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, người có chức vụ, quyền hạn.

Về mặt thể chế, hiện chúng ta đã có quy định kiểm soát tài sản, thu nhập qua việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức hàng năm. Mặc dù đã có quy định và một vài trường hợp kê khai gian dối đã bị xử lý kỷ luật nhưng dường như thiết chế này chưa hiệu quả và không đủ sức kiểm soát tài sản, thu nhập của của cán bộ, công chức, người có chức vụ, quyền hạn. Bởi trên thực tế, qua một số vụ việc cho thấy, không ít cán bộ có tài sản lớn nhưng bằng cách này, hay cách khác đã chuyển dịch cho vợ con, người thân, chuyển sang nước ngoài, thậm chí chuyển sang tài sản của đối tượng không bị kê khai.

Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ để không thể tham nhũng

Luật sư Trần Tuấn Anh – Giám đốc Công ty luật Minh Bạch (đoàn luật sư TP Hà Nội) cũng cho rằng, để cán bộ, công chức không thể tham nhũng thì vấn đề quan trọng là kiểm soát tài sản, thu nhập của họ. Thực tế cho thấy, mặc dù rất cố gắng trong việc triển khai quy định liên quan vấn đề kê khai tài sản cũng như công tác quản lý, kiểm soát sự minh bạch trong kê khai nhưng quá trình thực hiện vẫn còn không ít khó khăn, hiệu quả thấp.

“Trong nhiều năm nay, cán bộ, công chức cả bên Đảng và bên chính quyền đều phải kê khai hàng năm, nhưng một số người bằng cách này, cách khác để lách luật như chuyển tài sản cho vợ, cho con, cho anh em, cho công ty đứng tên chứ bản thân cán bộ không đứng tên. Vấn đề này gây bức xúc trong dư luận và tạo ra sự mất lòng tin của người dân đối với quan chức. Không thể nói câu chuyện ngày nào cán bộ cũng đi làm bằng xe sang nhưng lại là xe của công ty hay sống trong biệt thự hàng trăm tỷ nhưng người khác lại đứng tên. Dù đó là điều khó chấp nhận, nhưng lại là thực tế đang diễn ra”.

Luật sư Trần Tuấn Anh cho biết như vậy, đồng thời nêu ví dụ về trường hợp ông Đinh La Thăng khi cơ quan chức năng kê biên tài sản để định giá thì ông Thăng chỉ có một căn hộ tập thể cũ, sở hữu chung với vợ. Luật sư nhận định, việc thu hồi tài sản do tham ô, tham nhũng là một trong những vấn đề gặp nhiều khó khăn của cơ quan tố tụng hiện nay.

Cùng chung quan điểm, ông Nguyễn Đình Quyền – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, kiểm soát tài sản thu nhập là hạt nhân phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Nếu khâu này yếu thì tất cả các khâu khác sẽ yếu theo.

“Chúng ta vẫn loay hoay trong việc kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức, nhưng chúng ta không kiểm soát các đối tượng ở bên ngoài, thì mãi mãi không hiệu quả” – ông Quyền cho biết.

Theo ông Nguyễn Đình Quyền, để kiểm soát được tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức cần thiết phải ban hành Luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của toàn xã hội, trong đó không những chống được tham nhũng mà còn chống được rửa tiền, chống trốn thuế, chống gian lận thương mại, cho vay nặng lãi, chống sở hữu chéo giữa các ngân hàng…

Cùng với việc kiểm soát, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp như quản lý thuế, thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là đối với những tài sản có giá trị lớn. Đồng thời công khai, minh bạch về tài chính trong hoạt động của Nhà nước, xã hội và công dân bắt buộc đăng ký bất động sản trong các giao dịch, kiểm soát chặt chẽ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân mở tài khoản nước ngoài; cải cách chế độ tiền lương ở khu vực Nhà nước.

“Đặc biệt là hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp và hành vi không giải trình được thu nhập tài sản tăng lên một cách bất thường của cán bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn theo khuyến cáo đã được nêu trong Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng” – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nêu ý kiến./.

 

Để báo, tạp chí của Đảng là ngọn cờ tư tưởng, là cầu nối tin cậy giữa Đảng với nhân dân

 


Bài viết “Cần phải xem báo Đảng” ngắn gọn nhưng súc tích, khái quát cao như phong cách viết vốn có của Bác. Đến nay, sau 68 năm bài báo ra đời, câu chuyện Bác nêu vẫn còn tính thời sự và có giá trị gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về 2 vấn đề: một là, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của báo Đảng; hai là, về “bệnh lười” đọc báo Đảng của cán bộ, đảng viên. “MỘT KHUYẾT ĐIỂM TO” CẦN PHẢI “SỬA CHỮA NGAY”

Ngày 22/6/1954, Bác viết bài “Cần phải xem báo Đảng” đăng trên Báo Nhân dân số 179. Ngay phần mở đầu Bác đã chỉ ra: “Đảng ta mạnh vì Đảng ta tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, suốt từ trên xuống dưới. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động thông suốt và thống nhất… Tờ báo Đảng như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết, cần làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác. Hàng ngày nó nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của chúng ta.”. Bác cho rằng, “Nếu cứ cắm đầu làm việc, mà không xem, không nghiên cứu báo Đảng, thì khác nào nhắm mắt đi đêm; nhất định sẽ lúng túng, vấp váp, hỏng việc…”(1)

Bác phê bình: “Có những đồng chí mượn cớ quá bận việc, hoặc cớ này cớ khác mà không chú ý xem báo Đảng. Đó là che giấu bệnh lười, đó là một khuyết điểm to, cần phải sửa chữa  ngay”(2). Bác cũng “mách” cho cách để chữa bệnh lười: “…Vô luận công việc bận thế nào, nếu khéo sắp xếp thì nhất định có thời gian xem báo”. Vậy những ai cần “chăm” xem báo Đảng nhất? Bác cũng nêu: “Cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng, toàn thể đảng viên và cốt cán cần phải xem báo Đảng(3).

Bài viết “Cần phải xem báo Đảng” ngắn gọn nhưng súc tích, khái quát cao như phong cách viết vốn có của Bác. Đến nay, sau 68 năm bài báo ra đời, câu chuyện Bác nêu vẫn còn tính thời sự và có giá trị gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về 2 vấn đề: một là, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của báo Đảng; hai là, về “bệnh lười” đọc báo Đảng của cán bộ, đảng viên. Từ đó, suy nghĩ về mối quan hệ giữa cơ quan báo Đảng với bạn đọc, công chúng của mình. Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, báo Đảng là những báo nào, như thế nào thì gọi là báo Đảng và báo Đảng thời công nghệ 4.0 hôm nay khác gì và cần những điều kiện gì so với báo Đảng khi Bác viết bài “Cần phải xem báo Đảng”?

Nếu mỗi chủ thể không nhìn nhận đúng việc cần làm, phải làm, sẽ có thể dẫn đến làm suy yếu tiếng nói của Đảng, ngọn cờ tư tưởng của Đảng, diễn đàn của nhân dân cũng là làm suy yếu đi một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng ta.

NGỌN CỜ TƯ TƯỞNG, TIÊN PHONG, CHỦ LỰC, NÒNG CỐT, TIN CẬY

Nền báo chí cách mạng Việt Nam ra đời đến nay là 97 năm kể từ khi Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra tờ Thanh Niên ngày 21/6/1925. Kể từ đó, báo chí nước nhà là lực lượng tuyên truyền, cổ động, tổ chức tập thể việc thực hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực sự phụng sự Đảng, Tổ quốc và dân tộc. Tính Đảng là một thuộc tính căn bản, tiên quyết của nền báo chí cách mạng và của bất cứ tờ báo nào. Trong một phạm vi hẹp, có tờ báo, tạp chí được quen gọi là “báo Đảng” bởi tính chất đặc thù về cơ quan chủ quản, nhiệm vụ tiên phong trong tuyên truyền, là ngọn cờ tư tưởng, lý luận của Đảng, gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. 

Những tờ báo Đảng, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng đã định vị và khẳng định bề dày “thương hiệu” qua quá trình lịch sử cách mạng như báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản,… Báo Nhân dân ra đời 11/3/1951, kế tục sự nghiệp vẻ vang của các tờ báo Thanh Niên, Tranh Đấu, Cờ Giải Phóng, Sự Thật là “ngọn cờ trên mặt trận báo chí của Đảng, là tờ báo được quần chúng rất tin cậy”(4). Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng kế tục vai trò huấn luyện công tác và lý luận của những tạp chí buổi đầu cách mạng như Tạp chí Đỏ (1930), Tạp chí Cộng sản (1931, 1934, 1943, 1954), Tạp chí Bôn-sơ-vích (1934)…Từ buổi đầu lịch sử cách mạng, các tờ báo Đảng này và những tờ báo của các chi bộ cộng sản trong một số nhà tù lớn đã làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức giai cấp, đấu tranh giai cấp và xây dựng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho quần chúng lao động; tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng dân quyền của Đảng, kiên quyết chống đế quốc, phong kiến, chống chủ nghĩa cải lương của giai cấp tư sản và chủ  nghĩa dân tộc tư sản. Từ đó, chuẩn bị điều kiện để đón thời cơ đưa cách mạng tiến lên những cao trào mới mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo, đã phục vụ tích cực cho xây dựng Đảng, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, xây dựng XHCN ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đồng hành cùng dân tộc trong giai đoạn phát triển và đổi mới.

Bên cạnh đó, hệ thống các báo Đảng, đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, lực lượng vũ trang, báo, tạp chí của các ban Đảng Trung ương và tạp chí lý luận của hệ thống các trường Đảng,… Mỗi tờ báo, tạp chí đều có bề dầy lịch sử, đều phát huy vai trò dẫn dắt, định hướng về tư tưởng, hành động của xã hội trong triển khai các nghị quyết của Đảng; đáp ứng nhu cầu hiểu rõ quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đi đầu trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch…

Sau 97 năm ra đời và phát triển, báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đổi thay trên nhiều phương diện, phát triển nhanh chóng về số lượng, số đầu báo, tạp chí; xuất hiện thêm nhiều loại hình báo chí điện tử, báo chí đa phương tiện, đa nền tảng, tích hợp, hội tụ… Nhiều cải tiến về nội dung, hình thức, công nghệ in ấn, phương thức thông tin, nền tảng công nghệ, kéo theo đó là sự thay đổi về phương thức tiếp nhận thông tin, thói quen và nhu cầu tiếp cận. Trong bối cảnh đó, các báo, tạp chí Đảng với tư cách là cơ quan ngôn luận, cơ quan lý luận chính trị của các cấp ủy Đảng cũng đã thường xuyên đổi mới, cải tiến. Bài toán đổi mới đặt ra cho báo và tạp chí Đảng hiện nay là phải giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa tính đảng, tính định hướng, tính chiến đấu, tính khoa học, tính chuyên ngành, tính dự báo, tính nhân dân, tính chính thống, chính xác, chuẩn mực với tính hấp dẫn, tính thuyết phục, hiện đại và chuyên nghiệp…

NHẬN DIỆN MỘT SỐ BIỂU HIỆN CHƯA ĐÚNG

Thứ nhất, là tư duy “xem nhẹ” việc mua và đọc báo, tạp chí lý luận chính trị ở một bộ phận cấp ủy, cán bộ, đảng viên. Có những cấp ủy không sử dụng kinh phí được quy định để mua báo, tạp chí Đảng mà dùng vào việc việc khác, hoặc có mua nhưng không đọc, nghiên cứu. Đương nhiên, báo, tạp chí chính trị không phải là loại hình báo giải trí, nên khó hấp dẫn, thu hút người đọc. Nhưng đối với cán bộ, đảng viên, độ hấp dẫn của báo, tạp chí Đảng trước tiên đến từ sự cần thiết, tính định hướng, tính chính thống. Có đọc, có nghiền ngẫm thì mới trang bị được “phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức, phương pháp tư tưởng, có phương pháp đúng thì sẽ có nhận thức đúng, đánh giá đúng vấn đề và giải quyết đúng vấn đề”(5). Đúng như Bác đã chỉ ra, các đồng chí “mượn cớ”, hoặc cớ này, cớ khác, thực chất là “che giấu bệnh lười”. Nguy hiểm hơn, với nhận thức và ứng xử “xem nhẹ” đó có thể vô hình trung làm đánh mất vai trò, suy yếu sức mạnh tiếng nói của Đảng, triệt tiêu một công cụ quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, một số tờ báo, tạp chí trong tư duy đổi mới, chưa đồng bộ giữa đổi mới công nghệ và đổi mới đội ngũ, nâng cao chất lượng thông tin. Đổi mới theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, bắt kịp công nghệ phải bắt đầu từ con người, từ đổi mới tư duy và năng lực tiếp nhận cái mới, làm chủ công nghệ, tổ chức thông tin “đúng” và “trúng” với yêu cầu nhiệm vụ và nhu cầu của bạn đọc.

Thứ ba, trong sự hào hứng với sự phát triển của công nghệ, đón bắt xu hướng, chuyển đổi số, xuất hiện khuynh hướng chạy theo sự phát triển của các loại hình báo chí mới mà chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và những thế mạnh đặc thù của các loại hình báo chí truyền thống như báo, tạp chí in, mà các kênh thông tin khác, nhất là báo mạng không thể thay thế được(6).

Thứ tư, trong triển khai quy hoạch báo chí một số nơi có biểu hiện lắp ghép cơ học, chưa tính toán kỹ giải pháp để thực hiện mục tiêu quy hoạch là để đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.

KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ NÒNG CỐT, CHỦ LỰC TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG

Trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước, yêu cầu xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức càng quan tâm đến củng cố và phát triển báo, tạp chí Đảng, người viết xin góp bàn một số vấn đề sau:

Một là, nhận thức rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của báo, tạp chí Đảng là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng, ngọn cờ đầu trong công tác tư tưởng, lý luận, củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Các cấp ủy Đảng là cơ quan chủ quản phải luôn quan tâm, theo dõi sát sao, tạo điều kiện, nguồn lực về mọi mặt để tờ báo phát triển xứng tầm, có vị thế xứng đáng với vai trò, nhiệm vụ.

Hai là, các cơ quan báo chí phải thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo, đổi mới nội dung, hình thức, có chiến lược phát triển theo hướng tiếp cận công nghệ hiện đại; xây dựng đội ngũ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ, có khả năng nắm bắt và hành nghề trong hệ sinh thái công nghệ số.

Ba là, trong đổi mới, phục vụ Đảng, phục vụ công chúng phải luôn “lắng nghe” để “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng”(7). Lắng nghe bạn đọc là cán bộ, đảng viên và nhân dân, hiểu rõ tâm lý, hành vi, nhu cầu của công chúng báo chí trong thời kỳ hiện nay.

Bốn là, thực hiện quy hoạch báo chí, tinh gọn để nâng cao chất lượng, hiệu quả. Triển khai nghiêm túc Quyết định số 362/QĐ-TTG ngày 3/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025, Kết luận 26-KL/TW ngày 29/12/2017 của Ban Bí thư về “Kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả tạp chí các ban đảng Trung ương hiện nay”.Nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước, quy hoạch là để báo chí phát triển lành mạnh, đúng định hướng, nâng cao chất lượng, tránh “nặng về sắp xếp mà chưa coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động”(8).

Năm là, phát triển “hệ sinh thái” các loại hình báo chí đa phương tiện, đa nền tảng, phát huy vai trò của sản phẩm báo in truyền thống với sản phẩm báo chí công nghệ hiện đại. “Báo giấy còn cần phải song hành dài lâu cùng báo, tạp chí điện tử, không phải ở thói quen hay sự luyến tiếc bởi những thứ có tính chất cảm tính ấy sẽ phai nhạt dần và biến mất theo thời gian mà nó nằm ở nhu cầu mang tính chuyên môn, phục vụ cho các mục đích khoa học, lưu trữ đặc thù”(9). Theo phản ánh từ thực tiễn, “nhiều cán bộ chính quyền và các ban ngành, đoàn thể cấp xã, phường, cán bộ trưởng khu phố, tổ trưởng tổ dân phố phần lớn là những người lớn tuổi, có hạn chế đối với báo điện tử, rất cần có tờ báo, tạp chí Đảng hằng ngày để vừa cập nhật thông tin thời sự chính trị – xã hội, vừa làm tư liệu tuyên truyền trong nhân dân(10). Xu hướng “mobile first” (ưu tiên đọc trên điện thoại) sẽ thích hợp với độc giả có nhu cầu cập nhật tin tức thời sự hơn là đọc những bài chuyên sâu, những bài có tính tư liệu trên báo, tạp chí in của Đảng.

Việc Trung ương nhấn mạnh và yêu cầu “mua và đọc” báo và tạp chí Đảng(11) và những ý kiến từ bạn đọc các lứa tuổi, các vùng miền cho thấy ấn phẩm in vẫn giữ một vai trò quan trọng trong thói quen, tình cảm, nhận thức, quan điểm và trong thực tiễn đời sống báo chí.

Học lời Bác dạy: “Vô luận công việc bận thế nào, nếu khéo sắp xếp thì nhất định có thời giờ xem báo”(12). Bên cạnh những thiết chế, quy định ràng buộc và tạo điều kiện Đảng về việc mua và đọc báo Đảng, chắc chắn rằng, báo, tạp chí Đảng phải vươn lên mạnh mẽ, khẳng định năng lực “xương sống” của nền báo chí quốc gia, chiếm lĩnh được công chúng, thực hiện tốt sứ mệnh là “ngọn cờ tư tưởng”, “lực lượng xung kích”, “cầu nối tin cậy” giữa Đảng với nhân dân./.

Bùi Thị Thu Thanh

 

Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

 


1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch thì việc nhận diện các loại quan điểm xuyên tạc, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đặc biệt quan trọng. Qua nghiên cứu có thể thấy các loại quan điểm chống phá sự lãnh đạo của Đảng hiện nay gồm: Loại tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng; loại xuyên tạc, phủ nhận Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; loại xuyên tạc lịch sử Đảng; loại bôi nhọ cá nhân các lãnh tụ, lãnh đạo của Đảng; loại lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng; loại ca ngợi chủ nghĩa tư bản để phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội… Trong đó, loại quan điểm xuyên tạc, phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng rất đa dạng, vừa hằn học trắng trợn vừa giả dối thâm hiểm, tập trung ở những vấn đề chính sau:

Thứ nhất, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam

Cùng với nhiều văn kiện khác của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc… Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[1]. Nhằm xuyên tạc, phủ nhận điều được khẳng định trên trong Cương lĩnh, các thế lực thù địch tập trung tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo”; rằng ở Việt Nam “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”. Các thế lực thù địch cho rằng, chế độ và thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền là mảnh đất tốt cho sự nảy sinh, dung dưỡng và phát triển tư tưởng, hành vi chuyên quyền, độc đoán, từ đó dẫn đến sự lộng hành quyền lực của bản thân đảng cầm quyền, gây mất dân chủ, làm rối loạn chính trị, bế tắc kinh tế, cản trở quá trình phát triển xã hội. Chúng quy kết “Độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại” và “khuyên” “Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”. Các thế lực thù địch đòi Việt Nam phải sửa đổi Hiến pháp, xoá bỏ Điều 4, hiến định về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội.

 Không chỉ dừng lại với những luận điệu trên, họ còn thống kê, thổi phồng những hạn chế, thiếu sót cả về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá khứ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quản lý xã hội để minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”. Chúng ra sức khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tham nhũng, tha hoá, kích động nhằm tạo sự phân hoá sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết trong Đảng và giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Chúng hô hào, khuyên khích đổi mới “triệt để”, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra sức xây dựng, nhen nhóm các tổ chức đảng đối lập phản động như cái gọi là “Đảng Việt Tân”, “Đảng Dân chủ”, “Đảng Dân chủ xã hội”…

Thứ hai, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đòi Việt Nam từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay, vấn đề con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh, đường lối luôn là một trong những chủ đề nóng bỏng nhất mà các thế lực thù địch tập trung công kích với những luận điệu ngang trái, giả dối và hằn học. Chúng cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, nên Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là “đi theo vết xe đổ của Liên Xô”. Chúng lập luận thế giới đương đại là thế giới toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, hầu hết các nước trên thế giới đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nên Việt Nam không thể giữ mãi định hướng xã hội chủ nghĩa; Việt Nam lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là ngược, là trái với quy luật tự nhiên; không nên đi lên chủ nghĩa xã hội… Chúng tỏ ra “nuối tiếc”: giá như Việt Nam không đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì đất nước không phải lâm vào mấy chục năm chiến tranh tàn khốc “nồi da xáo thịt” và kinh tế sẽ phát triển hơn. Do đó, chúng “khuyên” Việt Nam hãy từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa cũng chưa muộn. Các thế lực thù địch thẳng thừng đòi “Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hoà”[2].

Phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và khuyên Việt Nam từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, họ lập luận rằng những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng tốc độ phát triển kinh tế nhanh, những vấn đề xã hội, môi trường thường được giải quyết tốt hơn các nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Còn các nước đi theo chủ nghĩa xã hội thường xảy ra tình trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán và chính tình trạng này đã cản trở xã hội phát triển lành mạnh. Chúng thường đồng nhất những yếu kém, hạn chế của chủ nghĩa xã hội hiện thực, hay những sai lầm, hạn chế của một số đảng cộng sản để minh chứng Việt Nam phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, xuyên tạc, phản bác thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một trong những vấn đề rất quan trọng để định hướng sự phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam và được khẳng định trong Cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, các quan điểm sai trái, thù địch lại lập luận kinh tế thị trường không thể đi cùng định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta nêu ra và thực hiện là “vẽ rắn thêm chân”, vì đã là kinh tế thị trường thì phải “tự do tuyệt đối”. Chúng còn cho rằng kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự “kết hợp miễn cưỡng” của thể chế kinh tế và thể chế chính trị, từ đó kêu gọi xoá bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước…

Thứ tư, bóp méo, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Họ cho rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là phi dân chủ, bất chấp những gì Cương lĩnh đã ghi: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế của cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.

Họ bóp méo tính chất dân chủ của Nhà nước ta – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Các thế lực thù địch đưa ra quan điểm nhằm phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng cho rằng đó là bộ máy chuyên chính, với cơ chế quyền lực thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể nào bảo đảm dân chủ thực sự được. Chúng đòi xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đòi thực hiện cơ chế tam quyền phân lập trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, phủ nhận Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội và Công an

Trong các văn kiện nghị quyết và Cương lĩnh của Đảng đều nhất quán khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Đó là nguyên tắc bất di, bất dịch để bảo đảm cho Quân đội và Công an luôn luôn là lực lượng “tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”[3]. Tuy nhiên, các quan điểm sai trái, thù địch luôn tập trung mũi nhọn đòi “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang, yêu cầu Quân đội và Công an phải đứng ngoài chính trị; phủ định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an. Chúng lập luận: việc tổ chức ra lực lượng vũ trang chỉ là để bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Bởi thế, Quân đội, Công an phải trung lập, đứng ngoài chính trị, không phải chịu sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái nào… Từ đó, chúng “khuyên” Quân đội và Công an chỉ nên đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị của các đảng phái nhằm giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước…

Những quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam rất đa dạng. Đằng sau tất cả những luận điệu ấy, chúng không ngoài mục đích hàng đầu và quan trọng nhất là làm suy yếu, đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo và loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó chính là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của chúng. Vì thế, đòi hỏi chúng ta cần phải có những giải pháp phù hợp đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

2. Giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đấu tranh trên lĩnh vực t­ư t­ưởng, lý luận chống các quan điểm sai trái, thù địch là cuộc đấu tranh rất lâu dài và đặc biệt khó khăn. Chúng ta phải nhận thức đây là cuộc đấu tranh của những ngư­ời cộng sản kiên trung chống lại cuộc chiến không khói súng nhưng rất hiểm độc của các thế lực thù địch. Tiếp tục quán triệt và thực hiện chủ trương của Đảng, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 22/10/2018, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đặt ra phải tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Ðảng. Theo đó, trong tình hình hiện nay cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:

Một là, nâng cao cảnh giác, nhận diện đúng các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng, không chỉ trực diện chống lại những quan điểm phản động, thù địch mà phải nghiên cứu, nhận dạng đúng nhằm phê phán cả những ý kiến, trào l­ưu cơ hội, xét lại “tả” khuynh và “hữu” khuynh. Như V.I. Lênin đã nhận định: Đặc điểm của tất cả chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong mọi lĩnh vực là nó mang tính chất không rõ ràng, lờ mờ và không thể hiểu được… Thực tế, trong thời gian qua, ở nước ta vẫn còn tình trạng thiếu cảnh giác, nhận thức không đúng, nhận diện không chính xác các quan điểm sai trái, thù địch do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản xuyên suốt là bởi chúng ta chưa làm tốt công tác giáo dục ý thức cảnh giác, chưa tuyên truyền sâu rộng trong xã hội; phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch chưa trở thành động lực bên trong thôi thúc mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực tham gia. Vì thế, để đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng hiện nay có hiệu quả cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, nâng cao cảnh giác và nhận diện đúng quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Ở mỗi thời kỳ, nội dung, hình thức, lực lượng, phương tiện, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với Cương lĩnh, đường lối của Đảng là không giống nhau và ngày càng tinh vi, che giấu thâm hiểm. Do vậy, trong nhận diện các quan điểm sai trái, đòi hỏi chúng ta cần nhận rõ mục đích, âm mưu, thủ đoạn, lực lượng, phương tiện mà các lực lượng phản động, cơ hội chính trị sử dụng để phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Cùng với đó, phải tiến tới nắm rõ nhân thân, sở trường, sở đoản của những kẻ có tư tưởng thù địch, cơ hội chính trị; mục đích cụ thể, mục đích lâu dài, cơ sở tư tưởng, nguồn gốc phát sinh, phát triển của những luận điệu chống phá mà họ sử dụng. Hơn nữa, những nội dung này cần sớm phổ biến kịp thời tới các lực lượng tham gia đấu tranh.

Hai là, phải nắm chắc các nguyên tắc cơ bản trong quá trình đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng là cuộc đấu tranh do nhiều lực lượng tham gia, với nhiều hình thức, biện pháp. Do vậy, quá trình đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng phải giữ vững các nguyên tắc cơ bản: 1). Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam để đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch. 2). Phân biệt rõ quan điểm thù địch, quan điểm sai trái và xét xem chúng thuộc loại nào, trên cơ sở đó có các phương pháp đấu tranh, phê phán cụ thể, phù hợp, hiệu quả. Với các quan điểm thù địch, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống lại, bác bỏ toàn diện, triệt để trên nhiều phương diện lý luận, pháp lý, lịch sử, khoa học, thực tiễn. Với những quan điểm sai trái do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ cần có phương thức đấu tranh phù hợp, có lý, có tình để thuyết phục. 3). Vận dụng linh hoạt nguyên tắc khách quan, khoa học trong đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch. 4). Quán triệt nguyên tắc dân chủ trong đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch.

Ba là, tổ chức, xây dựng lực lượng tham gia đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng

Phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng là một mũi nhọn tiến công trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đây là một chiến lược được thực hiện công phu, có lộ trình chặt chẽ nhưng sẽ không có “đất diễn” nếu chúng ta có sự cảnh giác, biết tổ chức, xây dựng lực lượng, chủ động “phòng” từ xa, với nhiều tầng, nhiều lớp và kiên quyết đấu tranh “chống”. Quá trình đấu tranh trong thời gian tới cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng: tích cực, chủ động tiến công; phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện thụ động, bị động. Vì thế, cần có sự tổ chức chặt chẽ lực lượng đấu tranh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất từ Trung ương tới cơ sở. Từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, xuống tới các cấp uỷ Đảng ở cơ sở; từ Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ tới các ban, bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội đều có nhận thức thống nhất, đồng tâm hiệp lực cùng tích cực, chủ động phòng và chống. Tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các lực lượng, các phương tiện trên mọi mặt trận chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các tổ chức, động viên đông đảo các tầng lớp cùng tham gia, tạo ra hiệu ứng rộng lớn và mạnh mẽ, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nói chung và những quan điểm sai trái, lệch lạc phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng nói riêng.

 Do đặc thù của đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng đòi hỏi trước hết và quyết liệt nhất là phải đấu tranh trực diện phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, phản động, đặt ra phải phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng nòng cốt, bảo đảm cho lực lượng này thực sự “tinh nhuệ”, “thiện chiến”; giữ vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh. Chính vì thế, phải tập trung xây dựng lực lượng này thực sự tiên phong, có dũng khí đấu tranh, có quyết tâm cao, kiên trì, bền bỉ, dũng cảm, nêu cao tính đảng, tính chiến đấu, tính khoa học, nhạy bén và sắc sảo trong đấu tranh. Theo đó, phải chú trọng xây dựng và phát huy hơn nữa các lực lượng như: nhà trường, học viện, viện nghiên cứu; biên tập viên, phóng viên báo, tạp chí, cơ quan phát thanh, truyền hình… nhất là đội ngũ cán bộ khoa học xã hội và nhân văn, giữ vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh này. Đặc biệt, phải tìm chọn, tập hợp một số nhà khoa học, lý luận có nhiệt huyết, dũng khí, bản lĩnh chính trị và chuyên môn cao, có năng lực đấu tranh để bồi dưỡng, định hướng, giao nhiệm vụ cụ thể, làm nòng cốt, “mũi nhọn”, quyết định chất lượng, hiệu quả của cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, phát huy vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị

Để chống lại các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng có hiệu quả, đòi hỏi cấp bách hiện nay là phải tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, phát huy vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất.

Mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên nhận thức đúng việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, người đứng đầu với các nội dung, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình là một trọng điểm của công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, xác định quyết tâm chính trị và chuyển thành trách nhiệm trên thực tế, thông qua công tác tổ chức thực tiễn, không chỉ hô hào chung chung, nói không đi đôi với làm. Theo đó, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải xác định chống các quan điểm sai trái, thù địch là trách nhiệm, là lương tâm của mình trước Đảng, trước vận mệnh đất nước và trước nhân dân. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu không chỉ thường xuyên đưa nội dung lãnh đạo, chỉ đạo vấn đề đó vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ của tổ chức đảng và chương trình công tác hằng tháng, hằng năm của người đứng đầu mà cần có những nghị quyết chuyên đề, những chương trình “trọng điểm”, những kế hoạch “đặc biệt”, “chuyên sâu”. Trong công tác lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và việc chỉ đạo của người đứng đầu phải bảo đảm tính toàn diện, tính cụ thể và tính tổng thể, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách. Thường xuyên chú trọng việc kết hợp đấu tranh chống lại các luận điệu phản động, sai trái với tích cực ngăn ngừa và khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở mọi lúc mọi nơi. Kịp thời xử lý các trường hợp nói, viết và làm trái Cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng.

  Nhận diện và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ  Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Học viện Chính trị có vai trò rất quan trọng đào tạo, bồi dưỡng chính ủy, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự mẫu mực, sắc sảo và nhạy bén trong nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Qua đó, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới./.

Thiếu tướng VŨ ĐỨC LONG

 

Không được cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca


Việc tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu vừa bảo đảm sự tôn nghiêm của các biểu tượng quốc gia.

Tiếp tục Chương trình làm việc Kỳ họp thứ 3Quốc hội khóa XV, sáng 31/5, Quốc hội nghe giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

Theo Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng, đối với việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ đối với Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật Sở hữu trí tuệ được sửa đổi, bổ sung theo khoản 2 Điều 1 của dự thảo Luật. Chính phủ đề nghị bổ sung sửa đổi khoản 2 Điều 7 của Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca theo quy định của pháp luật; tổ chức, cá nhân thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.”

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được quy định tại Điều 13 của Hiến pháp năm 2013. Điều 351 của Bộ luật Hình sự, Điều 16 của Luật An ninh mạng đã có quy định cụ thể về xử lý tội phạm, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm trong việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế diễn ra thường xuyên, việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca tại các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể dục thể thao ở trong nước, nước ngoài và cả trên không gian mạng trở nên phổ biến hơn, việc tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu vừa bảo đảm sự tôn nghiêm của các biểu tượng quốc gia trong đời sống xã hội, vừa bảo đảm quyền thụ hưởng của người dân.

Do đó, để bảo đảm phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật cũng như nội dung và phạm vi quy định của Điều 7 Giới hạn quyền sở hữu trí tuệ, đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý khoản 2 Điều 7 như sau: “Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và quy định khác của pháp luật có liên quan. Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.”

Về kiểm soát an ninh đối với sáng chế trước khi nộp đơn đăng ký ở nước ngoài tại Điều 89a được bổ sung theo khoản 41 Điều 1 của dự thảo Luật, theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội: Biện pháp kiểm soát an ninh được quy định trong dự thảo Luật là biện pháp bổ sung bên cạnh quy định của Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước nhằm kiểm soát việc đăng ký các sáng chế có khả năng được xác định là sáng chế mật ra nước ngoài theo cơ chế sáng chế thông thường.

Bên cạnh đó, việc xác định phạm vi kiểm soát an ninh đối với sáng chế cần phải được cân nhắc kỹ để tránh ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài với Việt Nam, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy chuyển giao công nghệ vào Việt Nam.

Hơn nữa, việc xác định danh mục lĩnh vực kỹ thuật cũng như tiêu chí xác định phạm vi sáng chế tạo ra một phần hay toàn bộ tại Việt Nam phải kiểm soát an ninh không nên quy định cứng trong Luật mà cần được điều chỉnh linh hoạt bằng văn bản dưới Luật theo từng thời kỳ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: chỉnh lý khoản 1 Điều 89a để xác định các nguyên tắc và phạm vi kiểm soát an ninh đối với sáng chế và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này (khoản 2 Điều 89a); việc xử lý đơn đăng ký đối với sáng chế mật được thực hiện theo quy định của Chính phủ (khoản 3 Điều 108), ông Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh.

Cũng tại phiên họp sáng nay, các đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận về một số nội dung như cơ chế giao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng là kết quả của nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước; việc thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ đối với Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca; về kiểm soát an ninh đối với sáng chế trước khi nộp đơn đăng ký ở nước ngoài; điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp; hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng; trách nhiệm pháp lý về quyền tác giả, quyền liên quan đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian./.

 


Luận điệu sai trái về chủ trương thành lập Ban chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh

 


Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã tán thành Tờ trình của Bộ Chính trị về chủ trương thành lập ban chỉ đạo (BCĐ) cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN,TC). Lợi dụng sự kiện trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Nhận diện luận điệu sai trái

Trên nhiều trang mạng xã hội của các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông hải ngoại chống phá Việt Nam như RFA, VOA, RFI… phát tán nhiều bài viết, hình ảnh xuyên tạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII), trong đó tập trung đả phá Đề án thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC.

Các thế lực thù địch quy kết công tác PCTN “chỉ là mị dân”, ngụy biện “tham nhũng là sản phẩm của chế độ, thể chế chính trị ở Việt Nam”, quy kết “tham nhũng do chế độ độc đảng cầm quyền”! Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, chủ trương thành lập BCĐ PCTN,TC cấp tỉnh là “không cần thiết, chỉ tốn tiền của dân”, cho rằng việc làm này là “giả tạo”, vẽ ra câu chuyện “ta đánh ta”, “cộng sản thì ai cũng tham nhũng”… Mục đích các bài viết nhằm quy kết tham nhũng là “bản chất của chế độ”, từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải đa nguyên, đa đảng, phải “xã hội dân sự”…

Đây thực chất là trò chống phá kiểu “bình mới rượu cũ” của số đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Số này cố gắng vẽ ra bức tranh tối màu về công tác PCTN của Việt Nam, phớt lờ thực tế hiệu quả công tác PCTN, phủ nhận mọi cố gắng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc đẩy lùi vấn nạn tham nhũng; tìm cách gieo rắc tâm lý bất an, gây ra sự hoài nghi về các chủ trương, quyết sách của Đảng về PCTN, TC, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, lấy cớ kích động gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự đối lập, bất ổn từ bên trong.

Tham nhũng là vấn nạn của nhiều quốc gia

Thực chất, tham nhũng là hiện tượng xã hội đã xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, nó tồn tại trong mọi chế độ chính trị khác nhau, gắn liền với nhà nước và quyền lực. Bản chất của tham nhũng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế và cho dù chế độ chính trị nào, chủ nghĩa xã hội hay tư bản chủ nghĩa, chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền thì vẫn có nạn tham nhũng. Một số ví dụ điển hình về tham nhũng ở các nước có chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị như: Vụ Watergate – vụ bê bối về quyền lực chính trị để trục lợi từ 1972 – 1974 của Tổng thống Mỹ Richard Nixơn. Trước nguy cơ bị Quốc hội phế truất ngày 9/8/1974, Tổng thống Mỹ Richard Nixơn buộc phải từ chức, đây là Tổng thống đầu tiên và duy nhất trong lịch sử nước Mỹ phải từ chức khi đang là Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai.

Tổng thống Philippines Joseph Estrad (1998 – 2001) phạm tội tham nhũng phải ngồi tù chung thân; Thủ tướng Ukraine (1996 – 1997) Pavlo Lazarenko đã biển thủ 200 triệu USD từ ngân sách nhà nước (tương đương nửa triệu USD/ngày trong thời gian làm Tổng thống) phải bỏ trốn sang Hoa Kỳ; Tổng thống Hàn Quốc Park Geun – hye bị Quốc hội Hàn Quốc phế truất vào tháng 12/2016 do bị buộc tội tham nhũng, dính líu đến vụ bê bối chính trị dùng quan hệ cá nhân để tăng ảnh hưởng và trục lợi tài chính…

Tham nhũng là một vấn đề nan giải, một căn bệnh nhức nhối với những biến dạng rất phức tạp, đang hoành hành trên nhiều lĩnh vực, gây ra những hậu quả tiêu cực ở các quốc gia với chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, đấu tranh bài trừ tham nhũng được các nước rất quan tâm, thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, trên nhiều phương diện như pháp luật, hành chính, chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa, lối sống… Trung Quốc ban hành các văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong cán bộ Đảng và Nhà nước.

Trong khi đó, Luật Chống tham nhũng (năm 1989) của Singapore cho phép tòa án tịch thu tài sản của công chức nếu họ không giải thích được nguồn gốc tài sản đó. Thái Lan yêu cầu các cơ quan chức năng phải xem xét tất cả đơn thư tố giác của người dân về tham nhũng, dù có ký tên hay không ký tên. Một số nước như Colombia, Brazil… còn thiết lập các đường dây nóng để thu nhận tin tức về tội phạm nói chung và tham nhũng nói riêng.

Không thể phủ nhận kết quả PCTN, TC ở Việt Nam

Ở nước ta, cuộc chiến PCTN,TC đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu với quan điểm “không có vùng cấm” và đã đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt. Thành quả đó để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận.

Theo số liệu của BCĐ Trung ương về PCTN tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Chỉ tính riêng năm 2021, cơ quan có thẩm quyền đã kỷ luật 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 132 so với năm 2020), trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đây là những con số biết nói, khẳng định công tác đấu tranh PCTN “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Chính những thành quả trong công tác PCTN đã góp phần loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, làm trong sạch đội ngũ, nhằm xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Việc xử lý nghiêm minh có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe phòng ngừa chung, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ; khẳng định vị thế, uy tín của Đảng, đất nước ta trên trường quốc tế. Điều này cũng bác bỏ những luận điệu xảo trá, suy diễn của các lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC là cần thiết, quan trọng

Năm 2006, BCĐ Trung ương về PCTN được thành lập và được xác định là cơ quan trực thuộc Chính phủ, do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, có chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác PCTN trong phạm vi cả nước. Năm 2007, các BCĐ PCTN cấp tỉnh được thành lập theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN (năm 2007) và Nghị quyết số 294A/2007/UBTVQH12, ngày 27/9/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động của BCĐ Trung ương về PCTN trong giai đoạn này còn một số hạn chế, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Do vậy, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (năm 2012), đã quyết định tổ chức lại BCĐ về PCTN, chuyển đổi mô hình BCĐ trực thuộc Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu sang mô hình BCĐ trực thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư đứng đầu. Hội nghị cũng quyết định không tổ chức BCĐ tỉnh, thành phố về PCTN.

Tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo công tác PCTN và có trách nhiệm phối hợp với BCĐ Trung ương về PCTN khi có vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Mục đích của sự thay đổi này nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác đấu tranh PCTN, tăng cường tính độc lập tương đối của BCĐ với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong công tác đấu tranh PCTN.

Mô hình BCĐ Trung ương trực tiếp do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong công tác PCTN. Điều đó thể hiện rất rõ ở nhiệm kỳ khóa XII, XIII khi số lượng vụ, việc tham nhũng, kinh tế được phát hiện, xử lý tăng lên rất nhiều. Thực tiễn hoạt động của BCĐ Trung ương là bài học kinh nghiệm quý giá để công tác PCTN,TC ở các cấp, ngành, địa phương học hỏi, làm theo.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác trong chỉ đạo PCTN được cọ xát qua thực tiễn. Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo đi vào nền nếp, bài bản, khoa học. Các thành viên, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Sau khi BCĐ Trung ương về PCTN hoạt động thể hiện được tính hiệu quả, ưu việt thì có đủ lộ trình, thời gian và sự chuẩn bị nguồn lực phù hợp để thành lập BCĐ cấp tỉnh đủ mạnh, có thực quyền, trở thành “cánh tay nối dài” của BCĐ Trung ương, phục vụ đắc lực cho hoạt động PCTN, tiêu cực ở địa phương.

Tham nhũng hiện vẫn diễn biến rất phức tạp, được xem là một trong các nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Mặc dù kết quả PCTN,TC thời gian qua đạt được là rất quan trọng song công tác PCTN,TC ở nhiều ngành, địa phương chưa có sự chuyển biến rõ nét; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được ngăn chặn có hiệu quả; vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trong đấu tranh PCTN,TC.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN,TC tại địa phương đã bộc lộ bất cập, nhất là trong chỉ đạo phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, do đó nhiều tỉnh ủy, thành ủy đã đề xuất, kiến nghị thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC. Những tồn tại, hạn chế này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó có nguyên nhân từ tổ chức bộ máy các cơ quan chức năng PCTN,TC chưa thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; cơ chế chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan chức năng PCTN,TC ở địa phương chưa được tập trung, thống nhất.

Như vậy, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN, tiêu cực là chủ trương quan trọng, cần thiết, thể hiện rõ tinh thần triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt!”. Đây là những cơ sở để phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.

 

MỘT CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH

 


Mới đây, tổ chức Ân xá quốc tế đã đăng tải thông tin liên quan tới vấn đề hình phạt t.ử hình tại Việt Nam. Theo đó, tổ chức trên cho rằng Việt Nam vẫn đang duy trì số lượng hình phạt t.ử hình ở mức cao. Đây là cơ hội để các đối tượng phản động đăng tải các bài viết nhằm xuyên tạc, đả kích Đảng, Nhà nước.

Tổ chức Ân xá quốc tế từ lâu đã quá quen thuộc với những chiêu bài lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để phá hoại nộ bộ, đặt các yêu sách vô cớ đối với Chính phủ Việt Nam. Nguồn thông tin của tổ chức này thì mập mờ, luận điệu vô căn cứ là một món mồi ngon để các đối tượng phản động lợi dụng xuyên tạc.

Như đề cập ở trong bài đăng của mình, tổ chức Ân xá quốc tế (AI) đưa ra số liệu như sau: “Chính quyền Việt Nam đã ban hành ít nhất 119 án t.ử hình, đứng thứ bảy trên thế giới.Ngoài ra, số lượng t.ử tù hiện đang chờ bị hành quyết cũng lên đến hơn 1.200 người”. AI cũng nêu: thông tin về số án t.ử là bí mật nhà nước nhưng chẳng hiểu sao họ lại có được số liệu cụ thể đến vậy, phải chăng đều là bịa đặt.

Với tình hình thế giới hiện nay, việc đảm bảo dân chủ, nhân quyền đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, việc áp dụng t.ử hình không thể chỉ xét riêng về mặt dân chủ, nhân quyền mà còn phải tính tới việc bảo đảm trật tự xã hội, bảo đảm việc thực thi pháp luật của nhân dân.

Mặc dù Việt Nam hiện nay vẫn thuộc về những quốc gia duy trì hình phạt tử hình trong pháp luật, nhưng số lượng tội danh có thể bị kết án tử hình trong BLHS đã giảm liên tục kể từ năm 1999. Điều đó cho thấy, Việt Nam đang đi theo xu hướng chung của thế giới là giảm bớt hình phạt này.

Nhà chính trị học Nga Vladimir Kolotov cho rằng: phương Tây đang lợi dụng việc "bãi bỏ án t.ử hình" để can thiệp vào nội bộ các nước, nhằm làm suy yếu luật pháp và an ninh các nước đó. Tại Việt Nam, việc bỏ hẳn án t.ử hình sẽ còn phải đưa ra nghiên cứu một thời gian dài nữa mới có thể đưa ra quyết định.

LÊ ANH TUẤN