30/6/22

Giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng công tác xây dựng

 

Đảng 10 năm qua, sự ra đời và hoạt động của Ban Chỉ đạo (BCĐ) Trung ương về phòng, chống tham nhũng (PCTN), tiêu cực đã góp phần quan trọng từng bước kiềm chế, ngăn chặn được tham nhũng, tiêu cực.

Kết quả trong đấu tranh PCTN, tiêu cực góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cảnh tỉnh, răn đe, góp phần ngăn chặn tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội.

Sự ra đời tất yếu

10 năm trôi qua, nhưng hẳn nhiều người chưa thể quên câu chuyện diễn ra tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XI (tháng 10-2012). Đó là hình ảnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nghẹn ngào phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương. Trên cương vị người đứng đầu Đảng, thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân về “một số khuyết điểm lớn” cả hiện tại lẫn ở các nhiệm kỳ trước. Bởi, thời điểm trước đó, hàng loạt sai phạm của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, gây nhiều hệ lụy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước. Tham nhũng, tiêu cực, sai phạm do đội ngũ cán bộ gây ra làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Trong hàng ngũ của Đảng khi ấy, nhiều người rất quyết liệt chống tham nhũng, nhưng chống từ đâu, chống bằng cách nào? Để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh PCTN trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội, chỉ sau Hội nghị Trung ương 6, khóa XI chưa đầy 4 tháng, vào ngày 1-2-2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW thành lập BCĐ Trung ương về PCTN, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban để chỉ đạo toàn diện công tác PCTN trên phạm vi cả nước. Ngay trong phiên họp đầu tiên của BCĐ (ngày 4-2-2013), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở: “Chúng ta phải cam kết với nhau, mỗi thành viên BCĐ phải là một tấm gương về liêm sáng, trung thực, công tâm, khách quan, nếu không dân không tin”. Thực tiễn 10 năm qua minh chứng: Sự ra đời của BCĐ Trung ương về PCTN là việc làm cần kíp, là sản phẩm trí tuệ, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị trước một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Khẳng định sứ mệnh đặc biệt

Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020 (tháng 12-2020) thống nhất đánh giá: Từ khi BCĐ được thành lập đến nay, công tác PCTN có bước tiến mạnh, đột phá, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng, đánh giá cao, cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Chính sự nêu gương, trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao trước Đảng, trước dân, các thành viên BCĐ đã thực hiện triệt để, hiệu quả quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là: “Không có vùng cấm trong đấu tranh PCTN, tiêu cực”, trong 10 năm qua, BCĐ đã thực hiện tốt một số nhiệm vụ, như: Phát hiện và trừng trị những tập thể, cá nhân có hành vi tham nhũng; chỉ đạo tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế-xã hội và PCTN. Kết quả công tác đấu tranh PCTN đã góp phần rất quan trọng củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

10 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, trực tiếp là BCĐ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước được tăng cường, phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCTN, tiêu cực. 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang… Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. 

Qua công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 975.000 tỷ đồng, gần 76.000ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế hơn 2.000 văn bản pháp luật.

Đặc biệt, BCĐ đã đưa 977 vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo ở 3 cấp độ; trong đó BCĐ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 180 vụ án, 133 vụ việc; các cơ quan chức năng đã kết thúc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm 120 vụ án/1.083 bị cáo, có 37 bị cáo nguyên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.

Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương, Phó trưởng ban Thường trực BCĐ Trung ương về PCTN, tiêu cực, khẳng định: “Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta xử lý nghiêm minh nhiều cán bộ cấp cao như vừa qua. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu, rất đau xót khi phải xử lý kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình, nhưng vì sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng, sự nghiêm minh của pháp luật, vì niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, nên buộc phải làm”.

Bước tiến về tầm nhìn và tư duy

Trước thềm Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác PCTN, tiêu cực giai đoạn 2012-2022, đại biểu nhiều địa phương bày tỏ niềm tin tưởng, lạc quan trước quy mô, tầm mức và phương thức tổ chức hội nghị lần này. Đặc biệt, dư luận kỳ vọng, BCĐ Trung ương về PCTN, tiêu cực sẽ tiếp tục có những tham mưu, sáng kiến mới, hiến kế cho Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo cuộc đấu tranh đẩy lùi “giặc nội xâm”; đồng thời gửi thông điệp, tạo sự thống nhất, quyết tâm cao hơn nữa cho mọi cấp, mọi ngành và đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trong đấu tranh PCTN, tiêu cực.

10 năm qua, BCĐ luôn hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan tham mưu chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về công tác PCTN, tiêu cực với cách làm bài bản, đồng bộ, khoa học. Sự tham mưu “đúng” và “trúng” là căn cứ quan trọng giúp xây dựng, hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành hơn 250 văn bản về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và PCTN. Từ chủ trương của Trung ương và yêu cầu thực tiễn, Quốc hội sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 2.000 nghị định, quyết định; các bộ, ngành, địa phương ban hành hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thể chế hóa và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về quản lý kinh tế-xã hội, PCTN, tiêu cực, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý tham nhũng, tiêu cực hiệu quả. Đây chính là việc chúng ta “nhốt quyền lực vào lồng cơ chế”. Và tính hiệu quả của nó được chứng thực rõ rệt, vì gần đây, nhiều hành vi tham nhũng, tiêu cực dù rất tinh vi, xảo quyệt cũng đều bị phơi bày sự thật và xử lý triệt để, nghiêm minh.

PCTN đã thực sự trở thành phong trào hành động cách mạng rộng khắp trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, cơ sở được quan tâm nhiều hơn, từng bước khắc phục biểu hiện “trên nóng, dưới lạnh”. Riêng năm 2021, tất cả địa phương đã khởi tố những vụ án mới về tham nhũng. Một số địa phương phát hiện, khởi tố vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực lớn như: Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, An Giang, Thái Nguyên…

Việc PCTN, tiêu cực được triển khai toàn diện cả theo trục dọc lẫn chiều ngang, trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, PCTN, tiêu cực trong công tác cán bộ có nhiều đổi mới, dân chủ, công khai, minh bạch; nhiều vấn đề tồn tại trước đây trong công tác cán bộ được chỉ đạo giải quyết quyết liệt.

Như vậy, qua 10 năm hoạt động, dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư, Trưởng BCĐ, hoạt động của BCĐ có nhiều đổi mới, nền nếp, bài bản, khoa học, quyết liệt và hiệu quả. Vừa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực; vừa quyết liệt chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, với nhiều cơ chế, giải pháp, cách làm bài bản, hiệu quả và không chịu tác động không trong sáng của tổ chức, cá nhân nào; vừa chọn những khâu yếu, việc khó trong công tác PCTN, tiêu cực để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục.

Đặc biệt, ngày 16-9-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 32-QĐ/TW bổ sung, mở rộng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BCĐ để chỉ đạo cả công tác PCTN và công tác phòng, chống tiêu cực.

Mới đây, thực hiện kết luận của Hội nghị Trung ương 5, khóa XIII, Ban Bí thư ban hành Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của BCĐ PCTN, tiêu cực cấp tỉnh. Hiện nay, tất cả các tỉnh ủy, thành ủy đang khẩn trương quyết định thành lập và triển khai hoạt động của BCĐ cấp tỉnh nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác PCTN, tiêu cực ở địa phương, cơ sở. Tính đến ngày 27-6-2022, đã có 34 tỉnh, thành phố thành lập BCĐ PCTN, tiêu cực cấp tỉnh.

Dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng công bằng mà nói, tham nhũng, tiêu cực trên một số lĩnh vực hiện nay vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, có sự cấu kết, móc nối giữa cán bộ thoái hóa, biến chất với các doanh nghiệp, tổ chức để trục lợi, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Vì vậy, hôm nay (30-6), Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác PCTN, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 sẽ là cơ hội để cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy trao đổi nhằm tiếp tục thống nhất nhận thức, trao đổi kinh nghiệm, đề xuất giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, bất cập trong công tác PCTN, tiêu cực; đồng thời thể hiện quyết tâm chính trị trong cuộc chiến với “giặc nội xâm” của toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn dân.

 

“Củi khô, củi tươi” và bản lĩnh của người “đốt lò”

 


Hôm nay, Bộ Chính trị triệu tập một hội nghị quan trọng nhằm đánh giá một chặng đường mà ở đó, Đảng trực tiếp chỉ đạo và đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng – một công việc đầy cam go, thử thách khi phải đấu tranh với với chính những người đồng chí của mình, trong nội bộ mình.

10 năm qua, kể từ khi chuyển đổi mô hình Ban chỉ đạo TW về phòng chống tham nhũng từ Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu sang mô hình Ban chỉ đạo trực thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư đứng đầu, nhân dân đã thấy một “diện mạo mới” trong công cuộc làm trong sạch đảng, trong sạch đội ngũ.

Chưa bao giờ, kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta lại chứng kiến một thời kỳ “nở rộ” quan tham như lúc này. Phải chăng cơ chế thị trường đã cuốn “một bộ phận không nhỏ” vào vòng xoáy tiền tài, danh vọng để rồi sẵn sàng vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước?

Băn khoăn ấy đã có câu trả lời bởi lẽ, ngọn cờ chống tham nhũng do Đảng phát động và “người cầm lái” vững vàng đã đặt quyết tâm chính trị cao nhất cho cuộc chiến sinh tử để bảo vệ chế độ, giữ vững niềm tin trong nhân dân.

Những kẻ thoái hóa, biến chất, bất kể ai, kể cả Ủy viên Bộ Chính trị đương chức, kể cả sai phạm đã xảy ra từ lâu, bất kể ngành nghề công tác hay trình độ học vấn… cứ đi ngược lại lời thề trước Đảng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, lo vun vén cho bản thân và nhóm lợi ích, làm thất thoát tiền của Nhà nước… đều bị xử lý theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.

Với sự chỉ đạo lớp lang, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng, từ kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử…nhiều sai phạm “lẩn khuất” từ nhiều nhiệm kỳ trước đã bị đưa ra ánh sáng. Đó cũng là lý do khiến số lượng cán bộ, đảng viên bị xử lý ở thời kỳ này tăng “đột biến”.   

“Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên…” hình ảnh sinh động, dân dã mà người đứng đầu Đảng ví von với công cuộc chống tham nhũng đã trở thành một câu nói phổ biến trong dân gian. Người ta ngóng chờ những bản kết luận công khai của Ủy ban kiểm tra Trung ương, rồi tự mình cũng có thể trả lời tới đây, “củi tươi”, “củi khô” nào sẽ bị đưa “vào lò”. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực giờ đây không chỉ lẻ mẻ từng vụ, từng việc mà đã thành phong trào, thành một xu thế. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được.

Đấu tranh chống tham nhũng mạnh thế, kỷ luật và truy tố nhiều cán bộ như thế, cảm xúc của nhân dân thế nào? Nhân dân có buồn không, có tâm tư, trăn trở không?

Buồn lắm chứ, đau lắm chứ. Không ít vị cán bộ lão thành, cống hiến và hy sinh cả đời cho cách mạng đã phải gạt nước mắt khi nhắc đến những vụ việc nổi cộm, nhắc đến những cán bộ vi phạm cả pháp luật lẫn đạo lý, sẵn sàng kiếm chác trên nỗi đau khổ, bất hạnh của nhân dân. Nhưng trên hết, họ vẫn tin rằng, cuộc chiến chống “nội xâm” sẽ có kết quả tích cực, tin vào tài năng, bản lĩnh, phẩm cách, đạo đức của “người đốt lò”. Không liêm, không sạch thì trên bảo dưới không nghe. Không lấy bản thân mình, gia đình mình làm tấm gương thì sao “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được. Sự gương mẫu, quyết liệt, “nói đi đôi với làm”, “làm đi đôi với nói” của Tổng Bí thư, Trưởng Ban chỉ đạo và các lãnh đạo chủ chốt là chỗ dựa vững chắc, là sự đảm bảo về mặt chính trị và tạo động lực to lớn cho công cuộc phòng chống tham nhũng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”.

10 năm qua, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mô hình chống tham nhũng do Tổng Bí thư đứng đầu đã có thêm chức năng chống tiêu cực để đấu tranh và xử lý những kẻ quay lưng với Đảng, phai nhạt lý tưởng. Rồi cũng từ mô hình của Trung ương, tới đây, 63 tỉnh thành sẽ có mô hình tương tự để chỉ đạo rốt ráo công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, tạo thành “cánh tay nối dài” để quét sạch những cán bộ hư hỏng, thoái hóa, biến chất, từ cấp xã cho đến Trung ương.

Nhân dân trông đợi và ủng hộ công cuộc “đốt lò” dù muôn vàn khó khăn, thử thách. Bây gờ không làm thì bao giờ làm. Chỉ có như vậy, đất nước mới phát triển bền vững!

 

Tổng Bí thư: ‘Không được cậy có quyền, uốn thẳng thành cong’

Tổng Bí thư: ‘Không được cậy có quyền, uốn thẳng thành cong’

 


Tổng Bí thư nhắc lại, “Ban Chỉ đạo phải trong sạch, xứng đáng, nếu nhúng chàm thì nói không ai nghe. Ai trong Ban Chỉ đạo vi phạm tội sẽ xử lý trước. Không được cậy mình có quyền muốn làm gì làm, muốn uốn thẳng thành cong”.

Phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN, TC) giai đoạn 2012 – 2022 vào sáng 30/6, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, hội nghị hôm nay có nhiều ý nghĩa rất quan trọng. 

Theo Tổng Bí thư, hội nghị không chỉ nhìn lại 10 năm; không phải báo cáo thành tích, khen nhau mà cần rút ra cái gì và cần cải tiến thêm điều gì sắp tới để tiếp tục cuộc đấu tranh PCTN, TC không ngừng, không nghỉ, làm trong sạch bộ máy của Đảng và cả hệ thống chính trị, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đã trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược

Nhìn lại công tác đấu tranh PCTN, TC 2012 – 2022, Tổng Bí thư nhắc đến việc xử lý kỷ luật 2 Ủy viên Trung ương vừa rồi (ông Nguyễn Thanh Long, Chu Ngọc Anh) chỉ trong hai ngày, vừa xử lý kỷ luật đảng, vừa bãi nhiệm ĐBQH, cách chức Bộ trưởng, sau đó khởi tố ngay.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, với việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương (trực thuộc Bộ Chính trị) đến nay, công tác PCTN, TC “đã trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”. 

Dẫn kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới đây, Tổng Bí thư cho biết, tuyệt đại đa số ý kiến của người dân bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh PCTN, TC. Điều này khiến cho mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực xấu, thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười. 

“Không phải như một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, làm “chậm” sự phát triển đất nước; mà hoàn toàn ngược lại”, Tổng Bí thư khẳng định.

Điều này bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối cho rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là “đấu đá nội bộ”, “phe cánh”.

Tổng Bí thư nêu rõ, đẩy mạnh đấu tranh PCTN, TC và xây dựng, làm trong sạch Đảng và bộ máy Nhà nước chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm.

“Qua tổng kết, chúng ta có thể khẳng định rằng, chưa bao giờ công tác đấu tranh PCTN, TC lại được thực hiện một cách mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, bài bản và hiệu quả như thời gian gần đây; để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”, Tổng Bí thư quả quyết.

Tham nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những “kẻ thù hung ác”

Tuy nhiên, Tổng Bí thư lưu ý, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng phải thẳng thắn thừa nhận vẫn còn những hạn chế, tồn tại. Tham nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những “kẻ thù hung ác”, nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

Từ đó, Tổng Bí thư nêu nhiều bài học quý có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong đó, cần nhận thức cuộc đấu tranh PCTN, TC phải có quyết tâm chính trị rất cao, biện pháp rất trúng và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung, thống nhất của Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Chỉ đạo Trung ương…

Theo Tổng Bí thư, phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; liên quan đến lợi ích, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, phải có thái độ thật kiên quyết, không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt, cụ thể, hiệu quả. 

“Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm; quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; bất kể ai lạm dụng, lợi dụng quyền lực để trục lợi đều phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý vi phạm”, Tổng Bí thư phân tích. 

Tổng Bí thư nhấn mạnh, phòng, chống tham nhũng là “chống giặc nội xâm”, tức là chống những thói hư, tật xấu, nhất là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, tệ ăn bớt, ăn cắp, ăn chặn của công dưới nhiều hình thức; tiền tài, của cải, vật chất do người khác “biếu xén”, “cho, tặng”. Thực chất đó là hối lộ với động cơ không trong sáng. Việc này thường diễn ra đối với những người có chức, có quyền. 

Vì vậy, đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nhưng cũng vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành một cách kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ, “không nghỉ”, “không ngừng”.

Tổng Bí thư lưu ý, phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám tham nhũng”; và một cơ chế bảo đảm để “không cần tham nhũng”. 

Đồng thời xử lý cả hành vi tham nhũng và hành vi dung túng, bao che cho tham nhũng; can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng; phải tiến hành đồng bộ giữa kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính của Nhà nước, đoàn thể và xử lý hình sự.

Bên cạnh đó, Tổng Bí thư nêu rõ, kiểm soát cho được việc thực hiện quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực và thực hành liêm chính trước hết phải được tiến hành có hiệu quả trong các cơ quan PCTN.

Tổng Bí thư kể, khi tiếp xúc cử tri, cử tri hoan nghênh thành lập Ban Chỉ đạo PCTN, TC cấp tỉnh. “Tôi cũng răn đe trước là Ban Chỉ đạo phải trong sạch, xứng đáng, nếu nhúng chàm thì nói không ai nghe. Ai trong Ban Chỉ đạo vi phạm tội sẽ xử lý trước. Không được cậy mình có quyền muốn làm gì làm, muốn uốn thẳng thành cong. Phải hết sức trong sạch, bản thân mình có trong sạch thì mới đi chống người khác được”, Tổng Bí thư nói.

“Chân mình còn lấm bê bê, Lại cầm bó đuốc đi rê chân người”

Về phương hướng nhiệm vụ thời gian tới, Tổng Bí thư nhấn mạnh tinh thần kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. 

“Kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng; kịp thời xử lý, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp”, Tổng Bí thư nói.

Tổng Bí thư yêu xây dựng văn hoá tiết kiệm, không tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu.

“Cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo phải biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân có hành vi tham nhũng, tiêu cực”, Tổng Bí thư nhắn nhủ.

Tổng Bí thư lưu ý tránh tình trạng: “Chân mình còn lấm bê bê, Lại cầm bó đuốc đi rê chân người”; “Thượng bất chính thì hạ tắc loạn!”; “Cấp trên ở chẳng chính ngôi, cho nên ở dưới chúng tôi hỗn hào!”.

Bên cạnh đó, Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh đến việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế – xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng, tiêu cực”.

Trong đó, phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”.

Đồng thời, khẩn trương hoàn thiện các quy định về kiểm soát quyền lực; quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu; khuyến khích và bảo vệ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Bên cạnh đó là tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; phát hiện sớm, xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng; ngăn chặn có hiệu quả tệ “tham nhũng vặt”; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.

Trong đó, Tổng Bí thư lưu ý, phải kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu các hành vi sai phạm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Mọi cán bộ, đảng viên vi phạm đều phải bị xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh, công khai…

Tổng Bí thư mong tất cả các cán bộ “rường cột” của Đảng và Nhà nước, những “Bao Công” của thời đại ngày nay, hãy nêu cao tinh thần trách nhiệm và dũng khí trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, gương mẫu, đi đầu.

Tổng Bí thư dẫn lại ý trong “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nikolai A.Ostrovsky để kết lại bài phát biểu: “Cái quý nhất của con người là Cuộc sống và Danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ty tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ…”.

 

29/6/22

Phân tích một số nhận thức sai về tính khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin

 

 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991; bổ sung, phát triển năm 2011) cùng một số văn kiện khác của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.

Đó là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Thế nhưng vẫn còn có những ý kiến sai trái, phản bác lại quan điểm này, mà xét cho kỹ là do không nắm vững phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Trong “Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, học lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để vận dụng vào tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần biết được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.

Không phải học để thuộc lòng từng câu, từng chữ.

Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta.[1]

Do không thấm nhuần lời căn dặn trên đây, nên đã có một số ý kiến sai lầm như sau:

1- Chủ nghĩa Mác là sản phẩm của Tây Âu. Mác và Ăng-ghen sống ở Đức, Pháp, Anh; các ông đã kế thừa có phê phán các luồng tư tưởng của phương Tây (Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội Pháp) để xây dựng học thuyết của mình. Các ông chưa hiểu về phương Đông, châu Phi, Mỹ la-tinh, nên học thuyết của các ông chỉ phù hợp với phương Tây, không phù hợp với các nơi khác trong đó có Việt Nam, vì Việt Nam có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng…. khác với Tây Âu.

Mác và Ăng-ghen đã mắc sai lầm lấy cái bộ phận (Tây Âu) làm trung tâm để xem xét cái toàn thể (cả thế giới).

Không phải Mác và Ăng-ghen lấy cái bộ phận (Tây Âu) để xem xét cái toàn thể (cả thế giới) mà theo nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn” và “nghiên cứu một cơ thể đã phát triển thì dễ hơn là nghiên cứu tế bào của cơ thể đó”; nên khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các ông đã chọn nước Anh là nước điển hình cho sự phát triển của phương thức sản xuất này và đã đạt tới trình độ cao hơn các nước khác vào thời điểm đó, để minh họa chủ yếu cho sự trình bày lý luận của mình. Tuy vậy, ngay cả ở nước Anh khi ấy cũng chưa có chủ nghĩa tư bản thuần khiết mà vẫn còn những tàn dư của các phương thức sản xuất trước, như kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa nhỏ… Vì vậy, để tìm ra các quy luật vận động của xã hội hiện đại, tức là xã hội tư bản chủ nghĩa, Mác đã áp dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, gạt bỏ những tàn dư nói trên, nêu lên những giả định: Một là, nền sản xuất xã hội đã hoàn toàn bị phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối, mọi của cải đều biểu hiện dưới hình thái hàng hóa, kể cả sức lao động. Hai là, khi nghiên cứu công nghiệp và dịch vụ chỉ xét quan hệ giữa hai chủ thể là công nhân làm thuê và nhà tư bản; khi nghiên cứu nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa mới xét quan hệ giữa ba giai cấp cấu thành bộ xương sống của xã hội hiện đại: công nhân làm thuê, nhà tư bản đầu tư vào nông nghiệp và chủ sở hữu ruộng đất. Nhưng không xét từng người cụ thể mà xét họ trong chừng mực là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là đại biểu cho những quan hệ và những lợi ích giai cấp nhất định.

Bởi vậy, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải đặt mối nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Nếu bối cảnh phù hợp với những giả định đã nêu thì sẽ vận dụng trực tiếp, không kể là ở phương Tây hay phương Đông, không kể là châu Phi hay Mỹ la-tinh. Nếu bối cảnh lịch sử có những nét đặc thù, thì phải tính tới những nét đặc thù đó. Chẳng hạn, trong một nền kinh tế đang quá độ từ chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản hay đang quá độ từ tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì chỉ có thể vận dụng lý luận về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào hoạch định chính sách phát triển bộ phận (hay thành phần) kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước, không thể vận dụng vào sản xuất hàng hóa nhỏ hay kinh tế tự nhiên.

2- Mác và Ăng-ghen mới nghiên cứu chủ nghĩa tư bản sơ kỳ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, chưa bộc lộ hết những đặc trưng và xu hướng phát triển của nó, nên còn nhiều nhận xét và dự báo không phù hợp với chủ nghĩa tư bản hiện đại, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Dĩ nhiên là Mác và Ăng-ghen phải dựa vào thực tiễn của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất để nghiên cứu chủ nghĩa tư bản nhưng các ông cũng đã phát hiện nhiều xu hướng phát triển tất yếu của đại công nghiệp.

Trong “Lời bạt viết cho lần xuất bản thứ hai quyển I “Tư bản”, Mác đã trích dẫn bài bình luận về phương pháp của tác phẩm “Tư bản” đăng trên tạp chí “Người truyền tin châu Âu” ở Pe-téc-bua mà Mác cho là đúng: “Đối với Mác, chỉ có điều này là quan trọng: tìm ra quy luật của những hiện tượng mà ông nghiên cứu. Hơn nữa, điều quan trọng đối với ông không phải chỉ là cái quy luật chi phối những hiện tượng ấy trong lúc chúng đang ở dưới một hình thái nhất định và đang nằm trong mối quan hệ qua lại mà ông quan sát được trong một lúc nhất định. Đối với ông điều quan trọng hơn cả là quy luật biến hóa của các hiện tượng, quy luật phát triển của chúng, tức là sự chuyển hóa từ một hình thái này sang một hình thái khác, từ một trật tự quan hệ qua lại này sang một trật tự quan hệ qua lại khác…”

“Muốn thế, chỉ cần là khi chứng minh tính tất yếu của trật tự hiện thời ông chứng minh luôn cả tính tất yếu của một trật tự khác mà trật tự hiện thời nhất thiết phải chuyển sang, dù người ta có nghĩ đến hay không nghĩ đến điều đó, dù người ta có ý thức hay không có ý thức về điều đó. Ông coi sự vận động xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên”.[2]

Khi phân tích vai trò của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất, Mác đã nhấn mạnh: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”[3]. Các tư liệu lao động không những là thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành. Cơ sở kỹ thuật của công nghiệp hiện đại có tính chất cách mạng, nhờ dùng máy móc, nhờ các quá trình hóa học và các phương pháp khác nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ sở vật chất của nền sản xuất và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao động.

Chúng ta không thể kỳ vọng Mác và Ăng-ghen chỉ ra một cách cụ thể những giải đoạn kế tiếp sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất sản xuất bằng công nghệ nào, với những tư liệu lao động nào, nhưng theo phương pháp đã dẫn ra ở trên, các ông đã dự báo rất đúng nhiều xu hướng phát triển của đại công nghiệp. Thí dụ: Theo đà phát triển của đại công nghiệp, máy móc sẽ từng bước thay thế lao động giản đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn sẽ trở thành một quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về mặt lượng được quy vào một phần nhỏ hơn, về mặt chất được chuyển hóa thành một yếu tố nào đó, tuy cần thiết nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến, so với sự áp dụng khoa học tự nhiên vào công nghệ. Như vậy, việc tạo ra của cải thực sự trở nên lệ thuộc ít hơn vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí, và phụ thuộc nhiều hơn vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào sự ứng dụng khoa học vào sản xuất. Tính chất của lao động cũng thay đổi, lao động không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là loại lao động trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất; thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy.

Tri thức, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề này thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Đại công nghiệp đòi hỏi giáo dục bách khoa và những con người phát triển toàn diện.[4]

Những dự báo khoa học sẽ phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn, không nên mặc nhiên coi là những nguyên lý, mặc dù hầu hết các dự báo của Mác, Ăng-ghen và Lê-nin đều đúng. Chính các ông cũng thường xuyên kiểm lại các quan điểm của mình khi tình hình thực tiến biến đổi. Thí dụ: Trong “Lời tựa viết cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” xuất bản năm 1872, Mác và Ăng-ghen đã viết: “Xét về đại thể những nguyên lý tổng quát trình bày trong Tuyên ngôn này vẫn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đó, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt cũng phải viết khác đi, vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn, trong hai mươi lăm năm qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức thành chính đảng”…[5] Tóm lại, vẫn có thể vận dụng phương pháp nghiên cứu của Mác và Ăng-ghen về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào xem xét sự vận động của xã hội tư bản hiện đại.

3- Thế kỷ 19 chưa xuất hiện việc xây dựng xã hội mới, chưa có thực tiễn để hình thành học thuyết hoàn chỉnh về chủ nghĩa xã hội. Nhiều lắm là Mác và Ăng -ghen đưa ra được những dự báo khoa học dựa trên cơ sở phủ định những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản sơ kỳ. Như vậy, vì sao lại có thể khẳng định: đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan?

Không phải Mác và Ăng-ghen chỉ dựa trên cơ sở phủ định những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản sơ kỳ mà chủ yếu dựa vào những thành tựu của sự phát triển lực lượng sản xuất và xã hội hóa sản xuất ngày càng cao càng mâu thuẫn với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đi tới nhận định rằng: nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên.[6]

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thúc đẩy cách mạng kỹ thuật, nhờ sử dụng máy móc mà tăng sức sản xuất của lao động, tăng năng suất lao động và xã hội hóa sản xuất ngày càng sâu rộng, khiến cho quan hệ sở hữu tư nhân trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất và xiềng xích ấy sẽ bị đập tan, giống như giai cấp tư sản đã đập tan quan hệ sở hữu phong kiến.

Ăng-ghen nhận xét: “Mác nhấn mạnh những mặt xấu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách gay gắt như thế nào thì ông cũng chứng minh một cách rõ ràng như thế rằng hình thái xã hội đó là cần thiết để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội tới một trình độ cao đến mức làm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có thể phát triển như nhau một cách xứng đáng với con người. Tất cả các hình thái xã hội trước đây đã quá nghèo nàn để có thể làm được điều đó. Chỉ có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra được những của cải và những lực lượng sản xuất cần thiết để làm việc đó, nhưng đồng thời với số công nhân bị áp bức đông đảo nó cũng tạo ra cái giai cấp xã hội ngày càng đứng trước sự cần thiết phải nắm lấy những của cải và những lực lượng sản xuất ấy vào tay mình để sử dụng chúng cho toàn thể xã hội, chứ không phải cho riêng một giai cấp độc quyền như hiện nay”[7].

Lênin đã nhấn mạnh: “Học thuyết của chúng ta không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”.

“Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao thì kinh nghiệm của hàng triệu người sẽ chỉ rõ khi họ bắt tay vào hành động”[8].

Một xã hội mới ra đời thường không tránh khỏi một thời kỳ mò mẫm, tìm tòi và thử nghiệm, một thời kỳ không tránh khỏi mắc sai lầm và sửa chữa sai lầm. Lênin đặt câu hỏi: “Nhưng nếu người ta xét thực chất của vấn đề, liệu có bao giờ người ta thấy trong lịch sử lại có một phương thức sản xuất mới nào đứng vững ngay được, mà không trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm và tái phạm không?”[9]

Không thể đòi hỏi Mác, Ăng-ghen và Lênin xây dựng cho chúng ta một học thuyết hoàn chỉnh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà phải nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trích dẫn ở trên. Chính chúng ta phải học lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để vận dụng vào tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích đúng những đặc điểm của nước ta, để dần dần biết được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.

4- Chủ nghĩa Mác có nhiều phát kiến quý. Nếu coi học thuyết Mác là một giả thuyết để trao đổi, tham khảo, từ đó rút ra những điều bổ ích để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam thì rất tốt. Nhưng coi chủ nghĩa Mác là đỉnh cao nhất của khoa học, là điều bắt buộc mọi người phải tuân theo thì dễ mắc sai lầm.

Trước đây ở nước ta đã có những “hủ Nho”, tôn sùng đạo Nho đến mức đặt lên ban thờ để tụng niệm, ngày nay lại có những “hủ Mác” lấy các nguyên lý của chủ nghĩa Mác làm tiêu chuẩn để xét mọi việc xem đúng hay sai, do đó dễ dẫn cách mạng đi lệch hướng.

Cái sai thứ nhất trong nhận thức trên đây là không hiểu tính hệ thống chặt chẽ của lý luận Mác. Muốn rút ra được những điều bổ ích từ chủ nghĩa Mác để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam thì phải nghiên cứu các nguyên lý của chủ nghĩa Mác trong tổng thể, chứ không thể tách từng luận điểm ra khỏi hệ thống lý luận, thí dụ: Mác áp dụng phương pháp trình bày đi từ trừu tượng đến cụ thể vào luận giải phạm trù giá trị của hàng hóa. Ban đầu khi giả định chỉ xét quá trình sản xuất trực tiếp, Mác nhận định “chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy”.[10]

Nhưng khi đặt trong những điều kiện tái sản xuất, Mác lại đưa ra kết luận mới: “Giá trị của mọi hàng hóa… không phải do thời gian lao động cần thiết chứa đựng trong bản thân hàng hóa đó quyết định, mà là do thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Việc tái sản xuất đó có thể tiến hành trong những điều kiện hoặc thuận lợi, hoặc khó khăn hơn, không giống như những điều kiện sản xuất ban đầu”[11].

Khi xét thêm cạnh tranh và quan hệ cung cầu Mác lại phát hiện do cạnh tranh trong nội bộ từng ngành sẽ hình thành giá trị thị trường; cạnh tranh giữa các ngành sẽ dẫn đến bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận và hình thành giá cả sản xuất. Đó là cái trục mà giá cả thị trường xoay quanh. Nếu không nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống thì sẽ hiểu phiến diện về từng luận điểm trên và không thể vận dụng thích hợp vào thực tiễn.

Cái sai thứ hai của nhận thức này là không thấy rằng những người nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin không hề coi chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao nhất của khoa học mà tán đồng nhận định của Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống” [12].

Hơn nữa, chủ nghĩa Mác coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, nên ngay cả Mác, Ăng-ghen và Lênin cũng thường xuyên đối chiếu lý luận với thực tiễn để kiểm tra lại các nguyên lý xem đúng hay sai, chứ không phải là lấy các nguyên lý làm tiêu chuẩn để xét mọi việc.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã rút ra bài học: “Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ”[13].

Như vậy phải nắm vững phương pháp nghiên cứu và phương pháp trình bày kết quả nghiên cứu của Mác và Ăng-ghen mới có thể nhận thức đúng về tính khoa học của chủ nghĩa Mác./.

 

Thủ tướng: Cần nhận thức và hành động đúng đắn vì đại dương xanh

Thủ tướng: Cần nhận thức và hành động đúng đắn vì đại dương xanh

 


Tối 28/6, tại đầu cầu Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự cầu truyền hình trực tiếp “Khát vọng đại dương xanh.”


Chương trình do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tại 2 điểm cầu là Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội (Hà Nội) và Cảng quốc tế Cam Ranh (Khánh Hòa) nhân Ngày Đại dương Thế giới (8/6) và Tuần lễ Biển và Đại dương Việt Nam.

Cùng dự tại đầu cầu Hà Nội có: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình; Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Lương Cường; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Trị trở ra.

Dự tại đầu cầu Khánh Hòa có: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố ven biển từ Thừa Thiên-Huế trở vào; bà con ngư dân và cán bộ, chiến sỹ trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.

Trong chương trình, các phóng sự về tình yêu biển, đảo của người Việt Nam, tinh thần đoàn kết vươn ra biển lớn; quá trình nghiên cứu môi trường và sử dụng bền vững biển và đại dương được trình chiếu đan xen các tiết mục văn nghệ ca ngợi tình yêu biển, đảo quê hương. Chương trình có sự tham gia của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý chia sẻ kiến thức và tình yêu biển, đảo, cũng như triển vọng về phát triển kinh tế biển Việt Nam.

Chương trình khẳng định vai trò to lớn của biển và đại dương đối với sự sinh tồn của con người và nhiệm vụ bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị của tài nguyên, môi trường biển, đảo; khẳng định Việt Nam là quốc gia biển, với khát vọng thịnh vượng từ biển; thể hiện ý chí bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và các lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển, giữ hòa bình cho biển.

Phát biểu tại sự kiện, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng “Mẹ thiên nhiên,” trong đó có biển và đại dương, là người mẹ vĩ đại che chở, nuôi dưỡng cho tất cả chúng ta với trái tim bao dung, lòng nhân ái và tô điểm vẻ đẹp tâm hồn. Hành động bảo vệ, ứng xử với biển, đại dương là trả nghĩa ân tình, là trách nhiệm với “Mẹ thiên nhiên” và cuộc sống trên Trái Đất của mỗi quốc gia, mỗi con người.

Theo Thủ tướng, biển và đại dương bao phủ hơn 70% bề mặt Trái Đất, là cái nôi của sự sống, mang lại nguồn tài nguyên vật chất và tinh thần vô cùng to lớn cho nhân loại; là huyết mạch giao thương quốc tế, cửa ngõ kết nối, đồng thời đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển hòa bình, thịnh vượng của các quốc gia, dân tộc.

Tuy nhiên, biển và đại dương đang phải đối mặt với nhiều thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống chưa từng có như cướp biển, buôn lậu; những hành động đơn phương vi phạm pháp luật quốc tế; biến đổi khí hậu; việc khai thác tài nguyên biển quá mức; hệ sinh thái, môi trường biển bị ô nhiễm và suy thoái, nhất là rác thải nhựa, thậm chí rác thải nhựa còn xuất hiện trong loài cá sống sâu nhất của đại dương…

Điều đó đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, cả trước mắt và lâu dài đối với nhân loại, đe dọa sự tồn vong của nhiều quốc gia, dân tộc và cộng đồng dân cư. Đã bao lần đại dương “nổi giận” vì cách cư xử của con người, bao loài sinh vật biển quý hiếm đã vĩnh viễn bỏ chúng ta ra đi mãi mãi. Tình trạng này vẫn còn tiếp diễn, nhiều loài sẽ tiếp tục biến mất nếu chúng ta không hành động kịp thời, hiệu quả.Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Chương trình cầu truyền hình trực tiếp. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

“Đây là vấn đề toàn cầu, toàn dân, đòi hỏi các quốc gia, dân tộc, mọi cộng đồng và mỗi người dân cần nhận thức và hành động đúng đắn vì đại dương xanh, vì hòa bình, an toàn và phát triển bền vững,” Thủ tướng nhấn mạnh.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, cần khẩn trương thiết lập và triển khai cơ chế hợp tác khu vực, toàn cầu, chia sẻ dữ liệu, củng cố, hoàn thiện chính sách về bảo tồn các hệ sinh thái, bảo vệ môi trường và khai thác tài nguyên biển bền vững một cách thực chất, hiệu quả, đi đôi với bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái biển và ven biển.

Bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và an ninh trên biển trên cơ sở tuân thủ pháp luật quốc tế, nhất là Hiến chương và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982), tôn trọng chủ quyền, lợi ích và các hoạt động kinh tế hợp pháp chính đáng của các quốc gia.

Cùng với đó, giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế; tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý; bảo đảm tự do, an toàn, an ninh hàng hải, hàng không trên biển; tuân thủ quy định về các cơ chế hợp tác nghề cá trên thế giới mà các nước ven biển là thành viên, các nguyên tắc của Quy chuẩn ứng xử cho nghề cá có trách nhiệm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc.

Người đứng đầu Chính phủ khẳng định, là một quốc gia biển bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Việt Nam đã và đang thể hiện quyết tâm mạnh mẽ chung tay cùng cộng đồng quốc tế hướng tới đại dương xanh, hành tinh xanh, hòa bình, ổn định, hợp tác và cùng phát triển thịnh vượng, nỗ lực hành động, tôn trọng và tuân thủ luật pháp, công ước quốc tế; chủ động tham gia các cơ chế song phương và đa phương; tích cực thúc đẩy các hoạt động hợp tác khu vực, quốc tế về biển và đại dương.

Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ quốc tế; cắt giảm phát thải, ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải; giải quyết các tranh chấp về biển và đại dương thông qua các biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Việt Nam; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các nước khác.

Việt Nam sẽ thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo; tiếp tục đổi mới hệ thống chính sách, pháp luật, quy hoạch về quản trị biển và đại dương.

Đẩy mạnh triển khai các giải pháp phát triển kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển, nhất là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển dựa trên công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Xử lý tốt các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển và đại dương, nhất là rác thải nhựa.

Nhân dịp này, Thủ tướng cảm ơn và mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác, hỗ trợ hiệu quả về biển và đại dương của các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển trên thế giới. Thủ tướng cũng khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam sẵn sàng hợp tác, chung tay với cộng đồng quốc tế trong giải quyết các thách thức toàn cầu về biển và đại dương, đặc biệt trong bảo vệ môi trường, khai thác hợp lý, hiệu quả, bền vững nguồn lợi kinh tế biển, góp phần bảo đảm phúc lợi tốt hơn cho người dân gắn với bảo vệ hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế.

“Hàng nghìn năm qua, biển đã gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và đời sống của Nhân dân ta, mang lại nguồn lợi vật chất, làm giàu thêm bề dày văn hóa, tinh thần của người Việt Nam chúng ta qua các thời kỳ. Càng yêu biển đảo quê hương bao nhiêu, chúng ta càng phải tăng cường truyền thông, phổ biến và vận động người dân nâng cao ý thức và hành động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn và phát huy giá trị của biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc,” Thủ tướng chỉ rõ.

Theo Thủ tướng, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế vì một đại dương xanh, một đại dương hòa bình, một đại dương đoàn kết và phát triển, một đại dương nuôi dưỡng cuộc sống và làm đẹp tâm hồn mỗi người. Thủ tướng kêu gọi mọi người hãy hành động thực chất, hiệu quả, thật ý nghĩa để cảm ơn Mẹ thiên nhiên, trong đó có biển và đại dương.

Cũng tại chương trình, các đơn vị, tổ chức tặng xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình 1.000 lá cờ Tổ quốc và 1.000 áo phao cứu sinh; tặng Trường tiểu học và trung học cơ sở  thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh và huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh 30 bộ ảnh đẹp về biển, đảo cho các trường của 2 huyện; tặng đại diện xã Vạn Thạnh (Vạn Ninh) và xã Cam Bình (thành phố Cam Ranh) 250 đèn pin phục vụ đi biển và cứu hộ cứu nạn; tặng ngư dân hai huyện Lý Sơn (Quảng Ngãi) và Ngọc Hiển (Cà Mau), mỗi huyện 10.000 lá cờ Tổ quốc và 1.000 ảnh Bác Hồ; ngư dân hai huyện thuộc tỉnh Phú Yên, Bình Định, mỗi huyện 500 phao cứu sinh…/.

 

28/6/22

Vận dụng phương pháp của V.I. Lê-nin trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Việt Nam

 


 Trong quá trình hoạt động cách mạng, V.I. Lê-nin luôn kiên quyết đấu tranh chống những trào lưu tư tưởng phi mác-xít chống phá phong trào cách mạng. Đây là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, bảo vệ phong trào cách mạng và đã để lại những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc về phương pháp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho hiện nay.

Đôi nét về phương pháp của V.I.Lê-nin trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

V.I. Lê-nin chỉ rõ, phong trào công nhân cần có một đảng cách mạng lãnh đạo, đó phải là một đảng kiểu mới, thật sự có năng lực xây dựng cương lĩnh chính trị đúng đắn để lãnh đạo cách mạng. V.I. Lê-nin nhấn mạnh, đảng kiểu mới là đảng lấy chủ nghĩa Mác – lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học – làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Bởi “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”(1) và “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”(2). Quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác cho thấy, chủ nghĩa Mác không phải ngay từ đầu đã khẳng định được địa vị của mình, mà quá trình đó luôn gắn chặt với cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu tư tưởng đối lập cùng thâm nhập vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đây là tính quy luật trong phát sinh, hình thành, phát triển và hoàn thiện của bất cứ một học thuyết cách mạng nào.

Theo Lê-nin, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác, làm thất bại các trào lưu tư tưởng sai trái, phản động, phản khoa học, khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác trong Đảng, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. “Nếu không có cuộc đấu tranh quyết định và thẳng tay về mọi mặt để chống lại các đảng ấy – hoặc các nhóm ấy, các phái ấy, v.v., cũng vậy thôi – thì không thể nói đến đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, nói đến chủ nghĩa Mác, nói đến phong trào công nhân xã hội chủ nghĩa”(3). Thực tiễn cách mạng đã chứng minh từ năm 1840 đến nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã phải đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu tư tưởng đối lập, phản động, phản khoa học. Từ phái Hê-ghen trẻ cấp tiến – phái tuyên truyền quan điểm của chủ nghĩa duy tâm triết học, đến lý luận kinh tế, chống chủ nghĩa xã hội không tưởng tiểu tư sản của Pru-đông. Từ các quan điểm vô chính phủ của phái Ba-cu-nin và loại bỏ phái này ra khỏi Quốc tế I, đến tư tưởng Muyn-béc-giơ thuộc phái kinh tế của Lát-xan nổi lên ở Đức… Từ đó, chủ nghĩa Mác đã chiến thắng tất cả những tư tưởng đối lập và chiếm vị trí độc tôn trong phong trào công nhân quốc tế. 

Kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, V.I. Lê-nin luôn đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng phi mác-xít, phần tử cơ hội chủ nghĩa biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của phong trào cách mạng nói chung, của Đảng Cộng sản Nga nói riêng. Đây là một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác của V.I. Lê-nin không những trực tiếp đánh bại mọi trào lưu tư tưởng đối lập, thù địch với chủ nghĩa Mác, nhằm làm cho chủ nghĩa Mác không ngừng phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, mà còn để lại những bài học có giá trị to lớn về phương pháp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho các đảng cộng sản, công nhân quốc tế trên thế giới. Từ thực tiễn đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của V.I. Lê-nin, có thể khái quát phương pháp của V.I.Lê-nin trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên một số nét chính sau:

Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác phát triển không ngừng. Đây là phương pháp cơ bản mà V.I. Lê-nin sử dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhằm làm cho quần chúng lao động, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nhận thức sâu sắc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, làm cơ sở “miễn dịch” trước âm mưu, thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực phản động, thù địch. V.I. Lê-nin cho rằng: “Nhiệm vụ của đảng dân chủ – xã hội chính là ở chỗ phải dùng phương pháp tổ chức công nhân, tuyên truyền và cổ động họ để biến cuộc đấu tranh tự phát của họ chống bọn áp bức, thành một cuộc đấu tranh của toàn thể giai cấp, thành cuộc đấu tranh của một đảng chính trị nhất định, để đạt tới những lý tưởng chính trị và xã hội chủ nghĩa nhất định”(4). “Chỉ khi nào mỗi người công nhân riêng rẽ đều có ý thức rằng mình là thành viên của toàn bộ giai cấp công nhân, chỉ khi nào người công nhân đó nhận thấy rằng cuộc đấu tranh hàng ngày cho những yêu sách nhỏ, chống những tên chủ riêng rẽ và những tên quan lại riêng rẽ, là cuộc đấu tranh chống toàn bộ giai cấp tư sản và toàn thể chính phủ, chỉ khi đó cuộc đấu tranh của anh ta mới trở thành đấu tranh giai cấp”(5).

Theo V.I. Lê-nin, muốn phát triển chủ nghĩa Mác thì phải hiểu đúng, sâu sắc, toàn diện chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác còn là cơ sở để giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhận rõ bản chất phản động, âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động. V.I. Lê-nin giải thích rằng, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa không phải phát sinh từ phong trào tự phát của công nhân, mà do Đảng Mác-xít cách mạng đưa vào phong trào công nhân. Đồng thời, một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của đảng vô sản là đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống ảnh hưởng tư sản trong giai cấp công nhân, chống bọn cơ hội, xét lại – những kẻ truyền bá và là đại diện của hệ tư tưởng tư sản trong phong trào công nhân.

Cùng với việc đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin còn tích cực phát triển, hiện thực hóa chủ nghĩa Mác, coi đây là biện pháp tốt nhất để đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác. Theo V.I. Lê-nin, vấn đề này đòi hỏi không chỉ lòng dũng cảm, sự cố gắng phi thường, lòng nhiệt huyết cách mạng, mà còn là hành động cách mạng thực sự của quần chúng lao động trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, sức sống của chủ nghĩa Mác, khả năng bảo vệ, phát triển của chủ nghĩa Mác không chỉ ở sức mạnh và khả năng tự thân, mà quan trọng hơn là nằm ở hoạt động của triệu triệu quần chúng, cán bộ, đảng viên cộng sản, khi họ đã nhận thức và tin tưởng sâu sắc sự đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Điều đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác, đem lại sức mạnh cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, làm cơ sở để chiến thắng các tư tưởng đối lập xuất hiện cả ở trong và ngoài phong trào công nhân.

Thứ hai, kiểm tra, phát hiện kịp thời, thanh lọc nhằm loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa trong nội bộ Đảng, xây dựng chính đảng kiểu mới, trong sạch, vững mạnh của giai cấp công nhân. Đây là phương pháp chủ yếu, hàng đầu được V.I. Lê-nin tiến hành khi đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tư tưởng đó của Người được thể hiện trong nhiều tác phẩm kinh điển, các bài viết chỉ đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân trên toàn thế giới nói chung, ở nước Nga nói riêng. Theo V.I. Lê-nin, các phần tử cơ hội chủ nghĩa thường len lỏi vào trong hàng ngũ những người cộng sản để phá hoại tổ chức đảng từ bên trong; hành động chống phá của các phần tử này rất nguy hiểm, đe dọa trực tiếp đến sự trong sạch, vững mạnh của tổ chức đảng. Người chỉ rõ: “bộ máy nhà nước của chúng ta, trong một mức độ rất lớn, vẫn còn là một tàn dư của thời trước, và rất hiếm được sửa đổi một cách ít nhiều đáng kể. Bộ máy ấy chỉ mới được tô điểm sơ qua bên ngoài; ngoài ra, nó vẫn là điển hình thật sự của bộ máy nhà nước cũ ở ta”(6). “Ở nước ta, vẫn còn không ít những phần tử tệ hại nhất của giới trí thức tư sản đã “luồn lỏi” vào trong Chính quyền xô-viết: tống cổ chúng đi”(7).

Khi đảng cộng sản đã nắm quyền lãnh đạo đất nước, V. I. Lê nin chỉ ra và cảnh báo về những căn bệnh đã và đang trở thành nguy cơ hiện hữu đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội mới và để kẻ thù lợi dụng hòng xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng. Đó là những căn bệnh kiêu ngạo cộng sản, quan liêu, tham nhũng, hối lộ, xa hoa, lãng phí… Người chỉ rõ: “Tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, có nghĩa là một người ở trong đảng cộng sản, và chưa bị thanh trừ ra khỏi đảng, tưởng rằng chỉ bằng những pháp lệnh cộng sản là có thể giải quyết được tất cả mọi nhiệm vụ của mình”(8) và “nếu còn có một hiện tượng như nạn hối lộ, nếu còn có thể hối lộ được, thì cũng không thể nói đến chính trị được. Trong trường hợp này, thậm chí cũng không thể nói đến làm chính trị được, vì mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại kết quả gì cả”(9).

V.I. Lê-nin đã đưa ra quan điểm dứt khoát về quá trình thanh lọc bộ máy nhà nước: “phải vĩnh viễn vứt bỏ ngay tất cả những tiêu chuẩn chung về số lượng nhân viên của các cơ quan thuộc bộ ấy. Chúng ta phải lựa chọn đặc biệt cẩn thận những cán bộ của Bộ dân ủy thanh tra công nông, căn cứ vào một sự kiểm tra nghiêm ngặt nhất, chứ không khác được”(10). Điều đó nghĩa là, phải lựa chọn những người thực sự ưu tú trong chế độ xã hội để sử dụng trong bộ máy của Nhà nước, nhất là đối với những thành viên của Ủy ban Thanh tra Trung ương. Sử dụng con người phải đúng việc, cân nhắc thận trọng, coi việc thiết lập Bộ Dân ủy thanh tra công nông mới là cần thiết. Vì vậy, V.I. Lê-nin khẳng định, Đảng cần kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng để tẩy sạch các phần tử tha hóa, biến chất trong tổ chức của mình, nhằm làm trong sạch Đảng. Người cũng chỉ ra, cần lựa chọn những cán bộ cách mạng có phẩm chất cách mạng và tri thức tốt để phục vụ cách mạng.

Thứ ba, phê phán, đấu tranh không khoan nhượng, trực diện, trực tiếp với những quan điểm, tư tưởng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, của phong trào cách mạng. Đây là phương pháp cơ bản, quan trọng, thường xuyên được V.I. Lê-nin sử dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin là lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là người tiên phong trong đấu tranh làm thất bại những đòn tiến công hiểm độc của các thế lực thù địch, phản động trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ, nội dung, hình thức, lực lượng, phương tiện, thủ đoạn chống phá của chúng đối với chủ nghĩa Mác không giống nhau. Do vậy, để đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác có hiệu quả, V.I. Lê-nin lưu ý trước hết cần nhận rõ mục đích, âm mưu, thủ đoạn, lực lượng, phương tiện mà các thế lực thù địch, phản động, phản khoa học sử dụng để chống phá chủ nghĩa Mác.

Với tư duy luận chiến sắc sảo, V.I. Lê-nin đã đấu tranh trực tiếp, trực diện với từng quan điểm, tư tưởng chống phá chủ nghĩa Mác. Người yêu cầu những người cộng sản chân chính phải tỏ rõ thái độ dứt khoát, không mơ hồ, thỏa hiệp, kiên quyết đấu tranh trực diện, trực tiếp với chính những quan điểm, tư tưởng phản động của các thế lực thù địch. Chẳng hạn, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, bằng việc điểm mặt, chỉ tên rõ các phần tử cơ hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin đã trực tiếp luận chiến, vạch trần âm mưu, bản chất phản động của chúng. Người khẳng định: “Và chính hồi đó, vị lãnh tụ của Quốc tế II, ông Cau-xky đã cho xuất bản một cuốn sách về chuyên chính vô sản, nghĩa là về cách mạng vô sản, một cuốn sách còn trăm lần đê tiện, đáng ghét và phản bội hơn cuốn sách lừng danh “Những tiền đề của chủ nghĩa xã hội” của Bécstanh”(11) và “Cau-xky đã vứt bỏ… “đấu tranh giai cấp” áp dụng vào chế độ dân chủ! Cau-xky đã trở thành một tên phản bội hoàn toàn, một tên đày tớ của giai cấp tư sản”(12). Trong cuộc đấu tranh chống Crít-sép-xki, Mác-tư-nốp cùng đồng bọn cổ vũ cho sự phát triển của chủ nghĩa công liên, V.I. Lê-nin đã đấu tranh trực diện với các phần tử cơ hội chủ nghĩa đó: “Tôi không hề có ý nghi ngờ sự trong sạch của các ý định của ông; tôi đã nói rằng người ta cũng có thể trở thành người mị dân chỉ vì ngây thơ về chính trị thôi. Nhưng tôi đã vạch rõ rằng ông đã tự để cho mình rơi vào chỗ mị dân. Và tôi sẽ không ngừng nhắc lại rằng những người mị dân là kẻ thù tệ hại nhất của giai cấp công nhân”(13).

Bốn là, kiên quyết khắc phục những biểu hiện sai trái trong nhận thức, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác. Hoạt động nhận thức, vận dụng chủ nghĩa Mác của mỗi người cộng sản vừa phản ánh kết quả tuyên truyền, giáo dục, vừa thể hiện sức sống của chủ nghĩa Mác trong hiện thực. Những nhận thức sai trái, vận dụng không đúng đắn trong thực tiễn ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, sức sống của chủ nghĩa Mác cũng như khả năng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Ảnh hưởng tiêu cực này càng lớn nếu phạm vi nhận thức, vận dụng sai trái đó ở quy mô lớn, thời gian dài, nhất là đối với những đảng viên giữ vị trí, vai trò quan trọng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. V.I.Lê-nin kịch liệt lên án cách hiểu chủ nghĩa Mác một cách giáo điều, máy móc, ở trình độ cảm tính, tư duy kinh nghiệm. Họ quy giản chủ nghĩa Mác vào một số nguyên lý, quy luật, phạm trù; vi phạm nguyên tắc khách quan. Hậu quả của tình trạng này sẽ làm suy giảm nghiêm trọng uy tín, sức sống của chủ nghĩa Mác, thậm chí trực tiếp tạo ra những phần tử cơ hội chống phá cách mạng.

Giai đoạn năm 1895 – 1898, phái “kinh tế” bao gồm các phần tử cơ hội, thỏa hiệp đầu tiên trong hàng ngũ các tổ chức mác-xít ở Nga. V.I. Lê-nin coi luận điệu tuyên truyền của phái “kinh tế” là phản lại chủ nghĩa Mác, là phủ nhận sự cần thiết phải thành lập một chính đảng độc lập của giai cấp công nhân; là mưu mô muốn biến giai cấp công nhân thành vật phụ thuộc về chính trị của giai cấp tư sản. V.I. Lê-nin cho rằng, phái “kinh tế” là trung tâm của chính sách thỏa hiệp và chủ nghĩa cơ hội; trong phong trào công nhân, nếu phái “kinh tế” thắng nghĩa là phong trào cách mạng tan rã và chủ nghĩa Mác thất bại. Do đó, muốn thành lập được chính đảng của giai cấp vô sản thì phải đánh bại phái “kinh tế”. 

Định hướng vận dụng phương pháp của V.I. Lê-nin trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân, mỗi cán bộ, đảng viên về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là định hướng cơ bản trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Bởi vì, nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng không kiên định, thiếu nhận thức hoặc nhận thức không đúng đắn về bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ là cơ hội cho sự gia tăng hệ tư tưởng tư sản trong Đảng và xã hội. Đối với vấn đề này, V.I. Lê-nin từng nhấn mạnh: “vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệtư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian. Vì vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”(14). Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (trước đây) và các nước Đông Âu là bài học minh chứng cho sự thiếu kiên định vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin;  các đảng cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Xô bị khủng hoảng sâu sắc về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng sang đảng xã hội dân chủ.

Hơn nữa, đây còn là vấn đề nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Văn kiện Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta”(15). Chỉ có như vậy Đảng mới thống nhất, đoàn kết về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mới làm tròn vai trò lãnh đạo cách mạng để đi đến thắng lợi cuối cùng. Vì rằng, bản chất chính trị của một đảng bao giờ cũng phụ thuộc vào tính chất và nội dung hệ tư tưởng, lý luận mà đảng đó lựa chọn làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Nếu không có hệ tư tưởng, lý luận dẫn đường, đảng chính trị chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(16). Nếu không kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thì chính là sự thay đổi bản chất chính trị, giai cấp của Đảng; không còn giữ được tính chất cộng sản, không còn là đội tiên phong của giai cấp công nhân.

Để bảo đảm sự kiên định đó, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, biện pháp phù hợp, khoa học, trong đó tập trung vào các nội dung, biện pháp chủ yếu là: nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo về chính trị, tư tưởng trong Đảng và toàn xã hội. Kiên định các nguyên lý nền tảng, nguyên tắc, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đây là biện pháp đặc biệt quan trọng, giúp Đảng ta luôn giữ vững bản chất chính trị, không dao động trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, nhất là trước các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các phần tử cơ hội chủ nghĩa và các thế lực thù địch, phản động.

Hai là, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt những vấn đề có tính nguyên tắc đó là: Giữ vững nguyên tắc tính Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh tư tưởng, lý luận; vận dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; tính chính trị và tính khoa học trong đấu tranh tư tưởng, lý luận; kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ động, sáng tạo, thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ, chiến đấu không khoan nhượng trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.Thực hiện định hướng này sẽ bảo đảm hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của mọi tổ chức, lực lượng luôn giữ vững định hướng chính trị, hướng tới hoàn thành mục tiêu của cuộc đấu tranh, làm cho chất lượng, hiệu quả của cuộc đấu tranh đó không ngừng được nâng cao. Đồng thời, khắc phục được tư tưởng, hành động tùy tiện, vô nguyên tắc, kém thuyết phục, kém hiệu quả; không vô tình hoặc cố ý cổ súy, phát tán những quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin.

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc yêu cầu này trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi mọi tổ chức, mọi lực lượng phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy; phải trung thành tuyệt đối và nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, không mơ hồ về bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta. Cùng với đó, đòi hỏi khi tham gia đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, cho dù ở hình thức, phương pháp nào cũng phải chủ động bám sát tình hình thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải xuất phát từ thực tiễn. Khi đấu tranh, không được xa rời mục tiêu, nguyên tắc chính trị, vững vàng về bản lĩnh chính trị, đồng thời gia tăng hàm lượng khoa học trong từng hình thức, phương pháp đấu tranh. Kiên định những nguyên tắc lý luận, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết, tư tưởng đó;  đồng thời, phải vạch trần tính chất phản khoa học, phản động của những quan điểm, tư tưởng sai trái đã, đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin hiện nay.

Các tổ chức, lực lượng tham gia đấu tranh phải luôn quán triệt tư tưởng cách mạng không ngừng, chủ động tiến công, đồng thời luôn luôn sáng tạo, linh hoạt về phương pháp, kiên quyết giành thắng lợi và không khoan nhượng, thỏa hiệp với các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch; phải nâng cao tính dự báo, tính kế hoạch, chủ động tổ chức các lực lượng đấu tranh; đấu tranh thường xuyên, liên tục, bền bỉ, gia tăng về phạm vi, chiều sâu, tầm cao; thường xuyên nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ba là, phát huy sức mạnh các tổ chức, các lực lượng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sức mạnh của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là sức mạnh tổng hợp của cả đất nước, dân tộc, của mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng, mọi nguồn lực của quốc gia. Không thể có bất kỳ một lực lượng riêng lẻ nào có thể tiến hành thành công cuộc đấu tranh này nếu không có sự phối kết hợp chặt chẽ với các lực lượng, nguồn lực khác của cả hệ thống chính trị. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng của cả hệ thống chính trị. Nắm vững yêu cầu này, triển khai linh hoạt và sáng tạo trong thực tiễn cuộc đấu tranh sẽ tạo thêm những xung lực mới, giúp các tổ chức, các lực lượng đấu tranh ngày càng thiết thực và hiệu quả hơn.

Thực tế đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nước ta cho thấy, “Một số cấp ủy chưa thật sự quan tâm và coi trọng công tác tư tưởng; có biểu hiện hữu khuynh, nể nang, né tránh đối với những quan điểm sai trái có tính nguyên tắc”(17). Do đó, để thực hiện tốt định hướng này cần nâng cao trách nhiệm, phát huy vai trò của các cấp ủy trong tổ chức, chỉ đạo, lãnh đạo cuộc đấu tranh; vai trò của các ban chỉ đạo từ Trung ương đến các địa phương trong tham mưu, hướng dẫn, điều hành; vai trò của các chủ thể và lực lượng đấu tranh gián tiếp và đấu tranh trực tiếp, nhất là lực lượng nòng cốt, như đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ nghiên cứu của Đảng, các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành, các cơ quan, viện nghiên cứu, thông tấn, báo chí, đài truyền thanh, truyền hình; vai trò của các công cụ và phương tiện, thiết chế giáo dục và tuyên truyền… Các cấp, các ngành, các lực lượng trong hệ thống chính trị phải có sự phối hợp và tổ chức chặt chẽ với nhau, tạo thành thế trận liên hoàn đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đạt hiệu quả cao.

Bốn là, sử dụng đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là định hướng rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận chịu sự chi phối và tác động sâu sắc từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quán triệt và thực hiện hiệu quả định hướng này sẽ khơi dậy và phát huy cao độ khả năng, thế mạnh, sở trường của các tổ chức, các lực lượng trong tham gia cuộc đấu tranh phức tạp này; trực tiếp nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch. Hiện nay, hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp, triển khai trên diện rộng và chiều sâu, diễn biến rất nhanh chóng, khó lường. Đây là cuộc chiến không tiếng súng, đánh vào trái tim, khối óc con người, rất nguy hiểm, phức tạp, khó nhận biết và ngày càng tinh vi, hiểm  độc. Chúng chống phá trên mọi lĩnh vực, bằng mọi thủ đoạn, nội dung, hình thức, phương pháp. Nếu các lực lượng tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ theo một chiều khuôn sáo, theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn, không sử dụng đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp, sẽ khó có thể đủ sức thuyết phục, đồng thời không khơi dậy và phát huy được tính độc lập, sáng tạo của các lực lượng tham gia đấu tranh, làm cho cuộc đấu tranh khó đạt được mục tiêu đã xác định.

Thực hiện định hướng này, đòi hỏi các tổ chức, các lực lượng tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải thường xuyên trau dồi, nâng cao tri thức khoa học, bản lĩnh chính trị, kỹ năng nhận diện và đấu tranh trên các mặt trận tư tưởng, lý luận; thường xuyên bám sát thực tiễn của cuộc đấu tranh, nhất là hoạt động chống phá của các thế lực thù địch để lựa chọn hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả; tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, trao đổi, truyền thụ kinh nghiệm giúp cho các chủ thể tìm ra hình thức, phương pháp tổ chức đấu tranh có hiệu quả hơn./.

 

 

Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy – một số vấn đề lý luận và thực ti

 


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn đề ra kế sách “sâu rễ, bền gốc” giữ yên bờ cõi, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Kinh nghiệm lấy dân làm gốc, giữ nước từ khi nước chưa nguy, chiến tranh nhân dân trở thành nghệ thuật, chiến lược xuyên suốt lịch sử cách mạng dân tộc. Kế thừa tư tưởng này, Đảng ta tiếp tục có sự phát triển về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Quán triệt sâu sắc vấn đề bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa vào nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển nhanh, bền vững là nội dung đặc biệt hệ trọng, mang tính cấp bách và chiến lược lâu dài. Bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận – thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước khi nước chưa nguy.

1. Một số vấn đề mang tính lý luận về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy

Dựng nước đi đôi với giữ nước là kết tinh kinh nghiệm quý báu lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta. Nói về giữ nước từ sớm, từ xa, Trần Quang Khải (1241 – 1294) nhà chính trị, quân sự thời Trần đã từng nói: “Thái bình tu trí lực. Vạn cổ thử giang san” (Thái bình nên tu dưỡng trí lực, vận lực. Đất nước vững nghìn thu). Hay Vua Lê Thái Tổ (1385 – 1433) căn dặn con cháu, muôn dân trăm họ: “Biên phòng hảo vị trù phương lược. Xã tắc ung tu kế cửu an” (Biên phòng cần có phương án, chiến lược tốt. Đất nước phải có kế lâu dài), “Lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”. Cùng với đó, tổ tiên ta đã thực hiện nhiều chính sách làm cho “quốc phú, binh cường”, khi đất nước thanh bình thì khuyến khích nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện, có lực lượng đánh giặc, bảo vệ đất nước khi lâm nguy, coi trọng nuôi dưỡng lòng dân, “lấy dân làm gốc”. Cũng chính vì vậy, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn từng nói: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốcĐó là thượng sách giữ nước…”. Tư tưởng, triết lý, kinh nghiệm quý báu của cha ông kết tinh từ lịch sử được kế thừa, vận dụng trong tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nên giá trị văn hóa, nghệ thuật dựng nước, giữ nước Việt Nam. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mối quan hệ gắn bó “máu thịt”, phát triển đất nước về mọi mặt không tách rời với nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

Các nhà kinh điển mácxít, đặc biệt là V.I. Lênin đã đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải đi đôi với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay sau khi Cách mạng tháng Mười thắng lợi, Người yêu cầu: “Một khi chúng ta bắt tay vào công cuộc hòa bình kiến thiết thì chúng ta phải đem hết sức mình để tiến hành công cuộc đó không ngừng. Đồng thời, hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của chúng ta như chăm lo con ngươi của mắt mình[1]. Người nhấn mạnh, giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền càng khó hơn, giai cấp bóc lột, các lực lượng thù địch với giai cấp công nhân không bao giờ tự nguyện rút khỏi vũ đài lịch sử; ngược lại, chúng tìm mọi cách, điên cuồng phản kích để khôi phục lại “thiên đường” đã mất. Đúng như V.I. Lênin đã kết luận: “Không có và không thể có cách mạng mà lại không có phản cách mạng[2]. Vì vậy, lãnh đạo cuộc đấu tranh trấn áp các hoạt động chống phá của các thế lực phản cách mạng, bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của đảng cộng sản cầm quyền. Hàm ý của Người là hết sức tranh thủ thời gian hòa bình, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, ra sức xây dựng các tiềm lực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, khoa học – kỹ thuật, tiềm lực quân sự…chuẩn bị để đất nước sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.

Trong thời đại Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy tiếp tục được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” và căn dặn toàn dân, toàn quân ta: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững, chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”. Tư tưởng này được vận dụng góp phần làm nên cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước ta giành được những thắng lợi to lớn, dân tộc được độc lập, nhân dân tự do, có cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc; là nguồn cảm hứng thôi thúc, cổ vũ phong trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới.

Trong thời kỳ đổi mới, kế thừa bài học kinh nghiệm quý báu lịch sử dân tộc, thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không để bị động, bất ngờ. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về quốc phòng, an ninh đã xác định những vấn đề cơ bản về bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục phát triển, hoàn thiện đường lối về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy”, trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công cuộc đối mới đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới: “Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”, “có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến[3]Thực hiện dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong đó lợi ích quốc gia – dân tộc là bất biến, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt;… giữ trong ấm, ngoài êm, giữ nước “từ sớm, từ xa”, từ khi nước chưa nguy”. Thực tế công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện phương châm trên. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên, tư duy, lý luận về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” được Đảng ta hoàn thiện, phát triển mới, chính thức đưa vào văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc.

Về bản chất bảo vệ Tổ quốc: là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nội hàm bảo vệ Tổ quốc không chỉ có bảo vệ sự tấn công từ bên ngoài biên giới quốc gia lãnh thổ, mà còn giữ ổn định bên trong; không chỉ bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược, mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, chủ động về mọi mặt ngay từ trong thời bình; ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ bên ngoài; xử lý, giải quyết các vấn đề bên trong với phương châm “trong ấm, ngoài êm”, “giữ vừng bên trong là chính” với hàm ý giữ vững chính trị ổn định, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh giữ vững, đối ngoại không ngừng được mở rộng xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Về bảo vệ Tổ quốc từ “sớm”: “Sớm” là trước thời điểm quy định, rất lâu trước đó (về thời gian). Bảo vệ Tổ quốc từ “sớm” là sớm về tư duy, nhận thức, sớm có quan điểm chỉ đạo, phương châm hành động, sớm trong nhận diện nguy cơ uy hiếp, sớm có phương án, lực lượng, phương tiện bảo vệ. Quá trình xây dựng, củng cố, phát triển cũng là quá trình triển khai các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước. Nói “bảo vệ Tổ quốc từ sớm” có nghĩa là phải có chiến lược bảo vệ, tự bảo vệ bên trong, từ bên trong; ngăn ngừa, triệt tiêu các nhân tố xâm lược, phá hoại, mất ổn định bên trong lẫn bên ngoài.

Về bảo vệ Tổ quốc từ “xa”: là bao hàm về không gian và cả thời gian, chủ động, cảnh giác, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi từ xa về không gian địa lý, ngay trong lòng địch; xa về thời gian, phát hiện, triệt tiêu ngay từ nguyên nhân, điều kiện hình thành nguy cơ đe dọa, uy hiếp. Chủ động phân tích, dự báo, đấu tranh, làm thất bại từ bên ngoài, từ bên trong mọi âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời, chuyển hóa lẫn nhau. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm là điều kiện, tiền đề để bảo vệ Tổ quốc từ xa; bảo vệ Tổ quốc từ xa là để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, bảo đảm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về nội dung bảo vệ Tổ quốc: Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nội dung bảo vệ Tổ quốc bao hàm: (1) Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. (2) Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. (3) Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (3) Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. (4) Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa. (5) Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về lực lượng bảo vệ Tổ quốcBảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng của cả hệ thống chính trị, của mỗi người dân. Nghị quyết 28-NQ/TW xác định: “Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyết đối về mọi mặt đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân…”. Theo đó, Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Nhà nước thống nhất quản lý, củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; nhân dân làm chủ, phát huy sức mạnh tổng họp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Lực lượng vũ trang làm nòng cốt, được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Như vậy, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy đã được nâng lên một tầm tư duy mới, không chỉ giới hạn ở bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm, từ khi nước chưa nguy để bảo đảm có kế sách, chuẩn bị tốt các điều kiện bảo vệ đất nước ngay trong thời bình, khi chưa xảy ra chiến tranh; chủ động các phương án, lực lượng để bảo vệ Tổ quốc ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động, ứng phó kịp thời, hiệu quả, đảm bảo giành thắng lợi trong trong mọi tình huống; đồng thời đảm bảo ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, giữ vững quốc phòng, an ninh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Thực tiễn bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm và một số vấn đề đặt ra

* Thành tựu, kết quả đạt được

Thành tựu cơ bản, bao trùm bảo vệ Tổ quốc là giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Cụ thể:

Một là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng trật tự, kỷ cương. Phát hiện và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại các mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Hai là, nền quốc phòng toàn dân được xây dựng toàn diện, có bước phát triển nhất định cả về chiều rộng, chiều sâu, ngày càng vững chắc; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh được tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước. Lực lượng quốc phòng được quan tâm xây dựng, sức mạnh chiến đấu được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế bố trí chiến lược các lực lượng được xây dựng, điều chỉnh hợp lý hơn. Chất lượng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được nâng lên một bước; khả năng phòng thủ quốc gia được nâng lên, cả trên đất liền, biên giới, hải đảo. Xây dựng nền an ninh nhân dân có bước phát triển. Sự gắn kết giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân chặt chẽ, hiệu quả hơn.

Ba là, kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại có chuyển biến quan trọng, kết hợp chặt chẽ, góp phần nâng cao thế và lực của đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước; tích cực, chủ động, độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập toàn diện, sâu rộng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc.

Bốn là, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định. Coi trọng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; bước đầu hạn chế “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phòng, chống có hiệu quả âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi đa nguyên, đa đảng, tam quyền phân lập của các thế lực thù địch. Chủ động nắm tình hình, đánh giá, dự báo được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phối hợp, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; không để xảy ra biến động chính trị, khủng bố, bạo loạn lật đổ, ly khai; cơ bản bảo vệ được an ninh kinh tế; đã nỗ lực giải quyết các vấn đề biên giới, biển, đảo, không để xảy ra đối đầu, xung đột vũ trang.

Năm là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang được kiện toàn, phát huy vai trò và hiệu lực lãnh đạo. Quản lý, đầu tư của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh được tăng cường, góp phần nâng cao tiềm lực bảo vệ Tổ quốc.

* Một số thách thức, nguy cơ đặt ra đối với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

Bên cạnh đó, trên một số lĩnh vực còn có hạn chế và trong tình hình mới xuất hiện những thách thức, nguy cơ mới tác động tiêu cực, là những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm. Thế giới, thế kỷ XXI tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp, khó lường, ảnh hưởng, tác động nhiều mặt đến nước ta. Với vị trí địa chính trị quan trọng, Việt Nam đã, đang và luôn luôn sẽ là “trọng điểm” cạnh tranh chiến lược, lợi ích, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực và phạm vi toàn cầu. Hơn nữa với chế độ xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn là mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch… Những nguy cơ, thách thức này cần thiết phải nhận diện chính xác, đầy đủ ở cả hai hướng sau đây:

Một là, nguy cơ, thách thức từ bên ngoài.

Nguy cơ rơi vào thế mắc kẹt giữa các cường quốc hiện nay, thách thức trong triển khai chính sách đối ngoại, đối với các mối đe dọa. Cục diện thế giới, khu vực biến đổi mau lẹ, sự cạnh tranh, mặc cả chiến lược giữa các nước lớn; diễn biến khó lường, các điểm nóng khiến môi trường chính trị, an ninh khu vực ngày càng phức tạp, làm giảm lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, kích thích chạy đua vũ trang và tâm lý dân tộc cực đoan, làm gia tăng căng thẳng và phức tạp quá trình giải quyết tranh chấp có liên quan đến lợi ích an ninh quốc gia. Với vị thế địa chính trị chiến lược quan trọng, vai trò tích cực trong các tổ chức quốc tế, khu vực, Việt Nam bị các nước tác động, gây ảnh hưởng, lôi kéo tham gia vào các cơ chế nhằm kiềm chế lẫn nhau, có thể đặt Việt Nam vào tình thế khó khăn trong ứng xử với từng nước và tại các diễn đàn quốc tế.

Thách thức an ninh đối với chủ quyền quốc gia ngày càng lớn, tạo môi trường bất lợi, gia tăng áp lực bảo vệ lợi ích quốc gia. Các tranh chấp lãnh thổ giữa nước ta với các nước lân cận khó có thể giải quyết triệt để, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột. Vấn đề Biển Đông gia tăng, bất ổn, phức tạp do Trung Quốc hành động cứng rắn hơn, phức tạp, khó lường hơn, đặc biệt là sử dụng các biện pháp thô bạo để giải quyết tranh chấp làm tăng nguy cơ trên biển, chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Các bên tranh chấp khác không từ bỏ, tăng cường tiềm lực, chạy đua vũ trang khiến tình hình ngày càng phức tạp, tạo ra mối đe dọa với an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước.

Nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc kinh tế vào các nước phát triểncác nước lớn, các định chế quốc tế ngày càng tăng. Những hạn chế trong hội nhập quốc tế như năng lực cạnh tranh thấp, trình độ quản lý chưa theo kịp, thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, cơ chế, chính sách, pháp luật còn thiếu đồng bộ. Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào nhiều định chế kinh tế, tài chính quốc tế, chịu nhiều bất lợi và sức ép cải cách chính sách, thể chế, nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để can thiệp chủ quyền, xâm phạm an ninh quốc gia. Các nước lớn xác định những vấn đề, tiêu chí tiêu chuẩn cơ bản của biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, chuỗi sản phẩm… làm điều kiện, tác động, chi phối, dẫn dắt quan hệ kinh tế quốc tế.

Thách thức phát triển khoa học công nghệ, áp đặt các giá trị, tư tưởng, văn hóa. Các nước phát triển, nước lớn tăng cường sử dụng các ưu thế sức mạnh vượt trội về kinh tế, khoa học, công nghệ để can thiệp, ra điều kiện trong quan hệ kinh tế, áp đặt các giá trị tư tưởng, văn hóa phương Tây vào Việt Nam; phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc và những giá trị tinh thần của chủ nghĩa xã hội; nguy cơ an ninh mạng càng hiện hữu.

Các mối đe dọa từ an ninh bên ngoài từng bước chuyển vào nội bộ, bộc lộ rõ nét, tạo thách thức lớn đối với nhiệm vụ duy trì, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Cùng với toàn cầu hóa, xu hướng “dân chủ hóa” trên thế với, các nước lớn đẩy mạnh phổ biến “sức mạnh mềm” thúc đẩy thay đổi chế độ chính trị, kích động phong trào ly khai, tự trị, thúc đẩy “môi trường tự do hóa, dân chủ hóa” theo kiểu phương Tây, làm xuất hiện, mở rộng khuynh hướng tư tưởng phức tạp trong nội bộ, các trào lưu xâm nhập vào Việt Nam, dẫn đến nguy cơ làm xói mòn truyền thống văn hóa dân tộc, phai nhạt lý tưởng, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Sức ép vấn đề “dân chủ, nhân quyền” ngày càng lớn.

Nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”. Chúng triệt để lợi dụng xu hướng toàn cầu hóa, “tự do hóa chính trị”, “dân chủ hóa”, sự khác biệt về thể chế chính trị, pháp luật, những khó khăn, thiếu sót của Việt Nam…để tạo khủng hoảng về tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gia tăng sức ép, chuyển hóa nội bộ, tác động vào quá trình cải cách tư pháp, lập pháp, thúc đẩy “tự do, dân chủ hóa”, công khai tài trợ, hậu thuẫn hình thành các tổ chức “xã hội dân sự”, hội nhóm khác nhau. Số phần tử cơ hội chính trị hoạt động ngày càng công khai, quyết liệt, phức tạp.

Các vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục gia tăng. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng với quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, tác động đến lợi ích, an toàn, an ninh quốc gia Việt Nam, như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, an ninh năng lượng, an ninh con người…

Hai là, những thách thức, nguy cơ từ bên trong, nội bộ.

Việc xây dựng đồng bộ hệ thống chiến lược thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn chưa đồng bộ. Công tác tham mưu chiến lược chất lượng chưa cao, trên một số mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình, yêu cầu nhiệm vụ. Đánh giá, dự báo tình hình có mặt chưa được cụ thể, kịp thời, còn bị động, bất ngờ trong một số tình huống. Chỉ đạo điều hành có lúc, có nơi thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị; công tác bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh tư tưởng còn nhiều bất cập, sơ hở. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chưa toàn diện; tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân chưa thật vững chắc. Đất nước vẫn tiềm ẩn các nhân tố có thể gây mất ổn định. Việc kếp hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa thật hiệu quả; kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thực tiễn còn có lúc, có nơi chưa thật hiệu quả, có mặt còn hình thức. Đầu tư cho quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận, khu vực phòng thủ, phát triển khoa học – công nghệ…chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 Tình hình an ninh chính trị nội bộ xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực. Các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được đẩy lùi, có mặt bộc lộ rõ nét, nghiêm trọng hơn mà Đảng ta chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tham nhũng, lãng phí…; công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ còn bộc lộ những sơ hở, để các đối tượng tác động, phân hóa, lôi kéo, chia rẽ, mất đoàn kết. Công tác bảo vệ bí mật nhà nước, tình trạng cung cấp tin, tài liệu bí mật, lũng đoạn nội bộ diễn biến phức tạp, có một số trường hợp bị móc nối làm nội gián, bị lôi kéo, mua chuộc, tham gia các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Tư tưởng, lối sống một bộ phận đông đảo, nhất là giới trẻ phai nhạt lý tưởng, đạo đức, lối sống.

An ninh kinh tế tiềm ẩn những bất ổn. Trước tác động của đại dịch, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, các doanh nghiệp tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, nợ xấu, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản, lao động thất nghiệp, tiềm ẩn bất ổn xã hội. Tình trạng trốn thuế, trục lợi hoàn thế, vi phạm pháp luật, làm sai quy định với thủ đoạn tinh vi, thao túng thị trường, lĩnh vực cơ bản, như tài chính, chứng khoán, bất động sản của nhiều tổ chức, cá nhân, tập đoàn tư nhân lớn vừa qua gây thất thoát, tác động lớn đến nền kinh tế. Tình trạng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lập dự án, xin đất, huy động vốn, đưa được người vào Việt Nam, chuyển giao, chuyển giá, nợ đọng lương, lãn công, biểu tình ở các nhà máy, khu công nghiệp ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, đối ngoại, môi trường đầu tư ở Việt Nam.

An ninh mạng tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các nước lớn xác định an ninh mạng là “vấn đề cốt lõi”, đe dọa an ninh mạng là đe dọa an ninh quốc gia. Ở Việt Nam, an ninh mạng đặt ra ngày càng cấp bách. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, tin tặc thường xuyên lợi dụng điểm yếu này để tấn công xâm nhập, thu thập thông tin, bí mật nhà nước, cài cắm mã độc, phần mềm gián điệp. Đồng thời, đây là công cụ đắc lực để phá hoại nền tảng tư tưởng, tuyên truyền xuyên tạc, luận điệu sai trái, thù địch. Các tổ chức phản động lưu vong tăng cường xâm nhập, móc nối, mua chuộc, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức, hội nhóm chống, phá quyết liệt. Các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao diễn biến phức tạp, hoạt động tinh vi, quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, nghiêm trọng. Công tác bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin còn nhiều sơ hở, quản lý nhà nước, cơ chế kiểm soát bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng còn có hạn chế, bất cập.

An ninh xã hội có nhiều yếu tố mất ổn định. Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn giáo gia tăng hoạt động, công khai chống phá quyết liệt. Số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo tuyên truyền, xuyên tạc, kêu gọi quốc tế gây sức ép, can thiệp vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”; cổ vũ, kích động, chỉ đạo, ủng hộ tinh thần, vật chất, hình thành tổ chức, hội nhóm chống phá. Hoạt động của các “đạo lạ”, “tà đạo”, “hiện tượng tôn tín ngưỡng, tôn giáo mới” có chiều hướng phát triển, lây lan phức tạp, gây mất an ninh trật tự. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện diễn biến phức tạp, bị phần tử xấu lợi dụng, gây rối trật tự công cộng. An ninh các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

 Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Hoạt động của các loại tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng. Tội phạm xâm phạm thân thể hành vi gây án ngày càng dã man, tàn bạo. Tình trạng chống người thi hành công vụ, nhất là cán bộ công an, hành vi chống đối manh động, liều lĩnh. Tội phạm kinh tế, tham nhũng nổi lên trong nhiều lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, đất đai – bất động sản, y tế, cố ý làm trái tại các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân gây thất thoát, lãng phí lớn.

3. Một số vấn đề mang tính phương pháp luận, định hướng giải pháp thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước khi nước chưa nguy

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp và có nhiều yếu tố không thuận lợi, dễ gây mất ổn định. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng; chiến tranh thương mại, công nghệ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ diễn ra gay gắt; xung đột vũ trang, khủng bố, tấn công mạng gây bất ổn ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, trên Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn về an ninh, chính trị và chủ quyền đất nước. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội; đối tác, đối tượng chuyển hóa mau lẹ, khó đoán định; tình hình an ninh, chính trị một số địa phương, cơ sở chưa thật sự ổn định vững chắc; việc mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện trên các lĩnh vực, đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức ý nghĩa, nhất quán quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” cần quán triệt một số vấn đề sau đây:

Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh tổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Ứng phó kịp thời với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng chống thiên tại, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.

Hai là, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng, củng cố và phát huy hiệu quả “thế trận lòng dân” trong “nền quốc phòng toàn dân”, “nền an ninh nhân dân”. Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội; quán triệt, thực hiện hiệu quả chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch.

Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến 2030 xây dựng Quân đội, Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội, Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, có lý tưởng, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở. Xây dựng, củng cố biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển.

Bốn là, xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo; có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại khu vực, tuyến phòng thủ. Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống.

Năm là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, công an đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy./.