Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù là nước lớn hay bé, phát triển hay đang phát triển, đều xây dựng cho mình những chủ thuyết, bao gồm hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng mang tính lý thuyết nhằm định hướng cho sự phát triển của quốc gia. Hệ thống tư tưởng định hướng này được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách, sách lược, chiến lược… nhằm hiện thực hóa những mục tiêu phát triển của các quốc gia, dân tộc trong thực tế. Chính nhờ được trang bị hệ thống lý luận khoa học, con tàu cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi đến đài vinh quang, sánh vai cùng bạn bè trên thế giới, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay…”[1].
Trong phạm vi
hội thảo, tác giả tập trung phê phán các luận điệu, quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận
quan điểm có tính nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; bác bỏ quan điểm của các thế lực thù địch
về yêu cầu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo học thuyết
tam quyền phân lập:
Thứ nhất,
kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực
thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Năm 1994, lần
đầu tiên quan điểm, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được xác định tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII giữa nhiệm
kỳ. Đây là quá trình mở đầu từ đúc kết, kế thừa có chọn lọc và vận dụng sáng tạo
tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại và quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực
tiễn xây dựng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác
định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy
đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm dụng quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời
bảo đảm sự thống nhất của Trung ương”[2].
Trong quá
trình đổi mới và cải cách đó, chúng ta nhận rõ một sự thăng hoa rõ rệt của nhận
thức lý luận của Đảng ta trong vấn đề Nhà nước pháp quyền. Chủ trương xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; đưa yêu cầu đó lên thành quy tắc hiến định (Điều 2 Hiến pháp 1992 được
sửa đổi năm 2001 và nay tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013) thể hiện sự thừa nhận và
sự kết hợp tính phổ biến của một giá trị lịch sử nhân loại với những nét đặc
trưng, những giá trị độc đáo của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đánh giá về
thành tựu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp
tục được hoàn thiện, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng
bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[3].
Những thành tựu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã
được thực tiễn kiểm nghiệm, hoàn toàn bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các
thế lực thù địch cho rằng, nhà nước pháp quyền chỉ có thể thành công ở mô hình
tư bản chủ nghĩa, gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Thứ hai,
bác bỏ luận điệu sai trái, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đây là nguyên tắc Hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, nguyên tắc bảo đảm sự
thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp cách mạng xã hội của nước ta là sự nghiệp cách mạng của toàn dân do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận hợp thành hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời là lực lượng lãnh đạo hệ thống
đó. Vì vậy, Nhà nước là một thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa tất yếu phải do Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng. Mọi hoạt động
của Nhà nước, cũng như việc tổ chức xây dựng và phát huy vai trò hiệu lực của
Nhà nước trong điều hành quản lý xã hội đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất của Đảng, ngoài ra không lực lượng nào có quyền nắm và lãnh đạo
Nhà nước. Đây là vấn đề thuộc về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, đồng
thời cũng là một nguyên tắc hiến định, đã được ghi trong Hiến pháp năm 1992 và
nay là Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện:
Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ
thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách;
lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức
thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất
lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm
tham mưu cho Đảng; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức
xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của
Nhà nước và bảo vệ Nhà nước.
Hiện nay, các
thế lực thù địch đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội. Chúng lên tiếng cho rằng, ở Việt Nam
không có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị”. Đây là thủ đoạn nham hiểm của các lực
lượng chống đối Đảng Cộng sản lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu những năm 80 của thế kỷ trước, tiếc rằng có một số người vẫn cổ xúy cho
thủ đoạn trên, mà không biết những hậu quả khôn lường đối với đất nước, đối với
xã hội, đối với người dân khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị đặt ngoài Hiến pháp.
Những người có lương tri trên thế giới không thể không nhớ đến sự kiện Đảng Cộng
sản Liên Xô tan rã năm 1991, những người dân chủ cấp tiến hả hê khi vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị đặt ngoài Hiến pháp, khi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô
năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) bị phá bỏ. Trên đất nước đó, sau những biến
cố thăng trầm, chính Tổng thống Nga V. Putin trong cuộc gặp các đảng phái chính
trị của Nga tại Điện Kremlin ngày 23/9/2016 cho rằng,Liên Xô sụp đổ là thảm họa
địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX, sự kiện Liên Xô sụp đổ không chỉ là thảm
họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX mà rất có thể là cả trong lịch sử
chính trị thế giới, để lại những hậu quả có tính toàn cầu về tư tưởng, văn hóa,
chính trị, kinh tế – xã hội và an ninh.
Những ai đó nếu
còn phản bác, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến
pháp, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, thiết tưởng cần nhớ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi,
bổ sung năm 1988) quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị
phá vỡ, để lại những hậu quả nặng nề trong không gian hậu Xô viết cho đến ngày
nay.
Thứ ba, tiếp
tục khẳng định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”; không áp dụng học thuyết tam quyền phân lập trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Đặc trưng cơ
bản, chung nhất của Nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng trong từng nước khi giải quyết các vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước
cũng đều xuất phát từ đặc điểm thực tiễn riêng của mỗi nhà nước khác nhau. Ở một
số nhà nước trên thế giới, do xuất phát từ thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử
hình thành… có tổ chức nhà nước theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”, tức là
phân lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với những hình thức và mức độ
khác nhau. Về bản chất, dưới khoa học chính trị học, đây thực chất là sự phân
chia quyền lực giữa các đảng phái. Tuy vậy, trên thực tế cũng chưa có một nước
tư bản nào thực hiện đúng nguyên tắc tam quyền phân lập, mà đều áp dụng linh hoạt
phù hợp với tình hình của từng nước.
Ở nước ta,
khi thảo luận vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng có ý kiến
cho rằng cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở nguyên tắc tam quyền
phân lập dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, Đại hội IX của Đảng đã dứt khoát
khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”[4].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất;
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5].
Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước tư sản, là: Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức
quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể “phân
quyền” theo lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ
có sự phân công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc hội
với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Các quan điểm
chủ đạo của Đảng ta về xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã gắn chặt với sắc thái truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cùng với
các giá trị dân chủ, nhân đạo, nhân văn, nhân ái của nhân loại. Mô hình Nhà nước
pháp quyền Việt Nam được xây dựng phù hợp với các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về việc vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác
nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức Nhà nước pháp quyền, ưu tiên những
giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hoà với các giá trị truyền thống, những đặc
điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước. Mọi yêu cầu, đòi hỏi hay đề nghị,
kiến nghị Việt Nam phải “tam quyền phân lập” chỉ là thủ đoạn, âm mưu phá hoại,
biến đất nước thành nơi hoang tàn, đổ nát.
Bên cạnh đó,
cũng cần phải nói, không phải chỉ tổ chức bộ máy nhà nước theo “tam quyền phân
lập” mới kiểm soát được quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là vấn đề vô
cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền
lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện để thực hiện được những mục đích đã đề
ra, mang lại hạnh phúc và nhiều lợi ích nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên,
trong quá trình nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn
rất nhiều những nguy cơ khác nhau như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền… Vì vậy,
vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong
quản lý nhà nước trên thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đây cũng chính
là ước vọng hàng nghìn năm của nhân loại tiến bộ. Ở nước ta, thuật ngữ “kiểm
soát” lần đầu tiên được hiện diện trong văn kiện của Đảng và thể chế hóa quan
điểm đó, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta không cần phải áp dụng cơ chế tam quyền phân lập, bởi
các nhánh quyền lực của nhà nước ta không phải “nhánh quyền lực của phe nhóm
này chống lại phe nhóm kia, vốn là gốc rễ của cơ chế tam quyền phân lập”.
Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII xác định “là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.
Chúng ta tin tưởng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo – chính đảng được
trang bị hệ thống lý luận sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc phủ nhận Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phủ nhận nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, văn bản có giá trị pháp
lý cao nhất của Nhà nước ta./.
0 nhận xét: