2/8/22

Tỉnh táo trước luận điệu xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

 

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính khái quát cao, là kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn dân tộc, vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh. Trong ảnh: Công nhân làm việc tại một phân xưởng lắp ráp linh kiện điện tử.

Tuy nhiên, bất chấp thực tế đó cũng như những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm đổi mới, các thế lực thù địch vẫn không ngừng tuyên truyền những luận điểm sai trái, xuyên tạc bác bỏ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Thực tế này đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái về vấn đề này.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta thời kỳ đổi mới, là sự lựa chọn khách quan, phù hợp xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đề cập đến mô hình kinh tế này, một số luận điểm cho rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa như “nước và lửa” không thể kết hợp được với nhau, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là trái quy luật… Đây đều là sự xuyên tạc vô căn cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, kể từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định hướng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay quyền lực nhà nước, thông qua nhà nước, giai cấp cầm quyền sẽ đề ra những chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ tối đa cho quyền và lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Do đó, điểm khác nhau cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ chúng được định hướng bởi những nền chính trị của các giai cấp cầm quyền khác nhau và phát triển theo những mục tiêu khác nhau. Nếu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được định hướng bởi nền chính trị, nhà nước của giai cấp tư sản, hướng tới mục tiêu tăng trưởng tối đa nhằm phục vụ tốt nhất cho lợi ích của giai cấp tư sản thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được định hướng bởi nền chính trị của giai cấp công nhân-giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Vì vậy, những đường lối, chính sách phát triển kinh tế mà nhà nước xã hội chủ nghĩa đưa ra trong khi phục vụ, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp công nhân cũng đồng thời phục vụ, bảo vệ lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Bởi thế, một trong những nét đặc trưng mang bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, trái lại, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách và suốt quá trình phát triển.

Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người chứng minh: kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Điều đó đồng nghĩa với việc các nước xã hội chủ nghĩa đều có thể sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển theo mục đích của mình.

Hiện đang xuất hiện một số luận điểm tập trung chứng minh: khi xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế nghĩa là Việt Nam đang “xoay trục” sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng tư bản chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là mị dân, hình thức. Đây hoàn toàn là ý kiến xuyên tạc, bịa đặt. Có thể thấy, trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài(1)) phù hợp trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tốc độ tăng trưởng cao.

Đảng, Nhà nước ta xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, do đó sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Nhờ đó, thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Qua 35 năm đổi mới “kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng từ 39-40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%,… góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội”(2). Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 đến 65%(3).

Tuy nhiên, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng không đồng nghĩa với việc chúng ta “tư nhân hóa” nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhưng kinh tế nhà nước mới là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế (trong đó có kinh tế tư nhân) theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy, bản thân kinh tế tư nhân ở Việt Nam cũng được định hướng hoạt động và phát triển phù hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội chung của Đảng và Nhà nước chứ không phải phát triển một cách tự phát.

Thực tế cho thấy, dưới sự định hướng theo những nguyên tắc thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội, phần lớn các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam luôn nêu cao việc thực hiện đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và xác định mục tiêu phát triển của mình là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm hiện thực hóa những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, trong những trường hợp cần thiết, họ có thể chấp nhận hy sinh lợi ích, lợi nhuận trước mắt để bảo vệ cho lợi ích chung của nhân dân. Điều này có thể thấy rất rõ trong thời gian chống dịch Covid-19 vừa qua, hưởng ứng chủ trương chung của Đảng, Nhà nước sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khỏe và tính mạng cho nhân dân, nhiều doanh nghiệp tư nhân mặc dù sản xuất, kinh doanh cũng đang chịu nhiều thiệt hại, thua lỗ bởi dịch bệnh nhưng vẫn sẵn sàng đóng góp bằng nhiều hình thức khác nhau để phục vụ công tác chống dịch.

Với chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước Việt Nam, một số quan điểm cho rằng, chủ trương này thực chất là việc tiến hành “tư nhân hóa” nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế thị trường theo hướng tư bản chủ nghĩa. Song thực tế đã chứng minh, chủ trương này ra đời xuất phát từ thực tế một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, do đó cần cổ phần hóa, cấu trúc lại nhằm huy động vốn đầu tư từ chủ thể của các thành phần kinh tế khác, qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh, thật sự xứng đáng trở thành nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Chẳng hạn như trường hợp của Vinamilk sau khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, quy mô tài sản liên tục gia tăng, khả năng tự chủ tài chính được cải thiện. Tính đến hết năm 2020, Vinamilk đã xuất khẩu đến 55 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,4 tỷ USD. Hay Sabeco, việc tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, thay đổi toàn diện chiến lược kinh doanh là nhân tố chính giúp Sabeco trở thành một trong những công ty dẫn đầu ngành rượu, bia, nước giải khát tại thị trường Việt Nam và trong khu vực…

Đặc biệt, trong chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cũng có quy định rõ về 13 ngành, lĩnh vực Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ; bảy ngành, lĩnh vực, Nhà nước nắm từ 65% vốn điều lệ trở lên(4). Đây đều là những lĩnh vực then chốt, thiết yếu liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng-an ninh để giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường của kinh tế nhà nước.

Những luận điệu phê phán, phủ nhận, xuyên tạc bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của các thế lực thù địch đều nhằm hướng đến một đích đến duy nhất là làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường, từ đó làm chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, cần hết sức tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai lầm, phi lý và vô căn cứ này; tiếp tục giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

 

0 nhận xét: