31/3/23

“Dân thụ hưởng” không phải là khẩu hiệu suông

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng bổ sung thêm chủ trương “dân thụ hưởng” vào nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Đây là sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc, người dân là chủ thể, là mục đích, là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Thế nhưng trên một số trang mạng, thế lực thù địch và những kẻ phản động cố tình xuyên tạc rằng, phương châm “dân thụ hưởng”, hay “lấy dân làm gốc” mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra là không thực chất, chỉ là mị dân. Nhưng cho dù kẻ xấu có xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế rằng, người dân Việt Nam đã và đang thực sự thụ hưởng thành quả cách mạng…

Cố tình xuyên tạc với mưu đồ xấu

Có thể nói phương châm “dân thụ hưởng” đã được thể hiện rõ trong mục tiêu, đồng thời cũng đã được triển khai thực hiện trong suốt quá trình cách mạng XHCN tại Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng trong mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân, vì chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Rõ ràng hưởng thụ đầy đủ lợi ích cả về vật chất, tinh thần là khát vọng của người dân, là mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của cách mạng XHCN và đang được hiện thực hóa trên đất nước ta. Từ sự cùng khổ của người dân một nước thuộc địa, bị đặt dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc, trải qua chiến tranh đau thương, mất mát, đến nay người dân Việt Nam đã thực sự sống trong tự do, hòa bình, độc lập, thống nhất, đời sống ngày càng đi lên.

Thế nhưng trong suốt những năm qua, các thế lực thù địch, phản động luôn cố tình phủ nhận những thành quả ấy. Lợi dụng tình hình công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực khiến một số cán bộ cấp cao vướng vào tham nhũng, tiêu cực nên bị kỷ luật, buộc phải từ chức hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự, lực lượng thù địch đã rêu rao rằng chỉ có “quan cộng sản” mới có nhà lầu, xe hơi, cuộc sống sung sướng, được hưởng thụ và cho rằng “dân thụ hưởng chỉ là ru ngủ dân…”. 

Ở đây, chúng ta phải khẳng định rằng những kẻ cơ hội chính trị và lực lượng thù địch không phải là không biết, không nhìn thấy những thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội mà người dân Việt Nam ngày ngày được thụ hưởng. Tuy nhiên, chúng cố tình xuyên tạc sự thật; thấy cây mục cho rằng cả cánh rừng phải chặt bỏ; lấy hiện tượng quy chụp bản chất; lấy sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên để suy diễn về phẩm chất đạo đức của toàn bộ đội ngũ cán bộ, đảng viên…

Sự thật không thể phủ nhận

Có thể nói, việc “dân thụ hưởng” thành quả cách mạng tại Việt Nam là sự thật không thể phủ nhận. Sự hưởng thụ của người dân Việt Nam toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước luôn thực hiện nhất quán chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; gắn kết giữa chính sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội; dân chủ ngày càng được mở rộng, mỗi người dân luôn được tạo điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Người dân thực sự là người chủ đất nước, bao nhiêu lợi ích, bao nhiêu quyền hành đều ở nhân dân. Chính người dân là người làm chủ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng XHCN, đồng thời người dân cũng trực tiếp thụ hưởng giá trị to lớn của quá trình đó.

Chúng ta thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước. Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của công dân. Đảng ta luôn đặt quyền lợi của nhân dân vào trung tâm các quyết sách, đường lối, với mục đích tối thượng là người dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển đất nước. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt con số biết nói: Năm 2021, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,703, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Báo cáo hạnh phúc thế giới (World Happiness Report-WHR) năm 2023 công bố ngày 20-3-2023 cho thấy chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022 lên vị trí 65 trong năm 2023. Hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận mục tiêu này và kêu gọi cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy hạnh phúc và phúc lợi của tất cả mọi người. Các tiêu chí được đánh giá gồm: GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ trung bình, quyền tự do lựa chọn cuộc sống, sự rộng lượng và nhận thức về tham nhũng.

Cùng với đó, Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Chỉ số bất bình đẳng giới (GII) của Việt Nam tiếp tục được cải thiện vào năm 2021, đạt 0,296, xếp hạng 71 trong số 170 quốc gia. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên áp dụng chuẩn nghèo đa chiều và hoàn thành trước 10 năm mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo. Mức sống tăng lên, sức khỏe của người dân được cải thiện nên tuổi thọ tăng qua các năm, chỉ số sức khỏe cả nước tăng từ 0,822 (năm 2016) lên 0,826 (năm 2020). Chỉ số giáo dục của Việt Nam là 0,618 vào năm 2016 và 0,640 vào năm 2020. Chỉ số thu nhập là 0,624 vào năm 2016 và 0,664 vào năm 2020. Như vậy có thể thấy, mặc dù là nước đang phát triển có xuất phát điểm rất thấp, nhưng các chỉ số cơ bản cho quyền lợi và sự thụ hưởng của người dân tại Việt Nam đều tăng dần qua từng năm, cho thấy đời sống của người dân Việt Nam đang đi lên một cách bền vững.

Theo tạp chí thương mại hàng đầu thế giới CEOWORLD (Mỹ), chất lượng sống của Việt Nam được cải thiện đáng kể. CEOWORLD đánh giá, Việt Nam có tổng số điểm là 78,49 và xếp hạng 62/165 quốc gia vào năm 2021. Thứ hạng chỉ số chất lượng sống được CEOWORLD dựa trên nhiều tiêu chí như: Chi phí sống; sự ổn định kinh tế-chính trị; môi trường làm việc; bình đẳng thu nhập; hệ thống giáo dục; hệ thống y tế…

Động lực để dân tin Đảng

Có thể thấy, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng phát triển kinh tế vì mục tiêu con người, thực hiện nhất quán quan điểm gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế vì con người, xây dựng thiết chế chính trị, hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN, quản lý đất nước, xã hội, mang lại những điều tốt đẹp cho con người. Vì vậy, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Mỗi một người dân Việt Nam đang hằng ngày, hằng giờ được thụ hưởng môi trường hòa bình, ổn định, yên tâm lao động sản xuất và thừa hưởng chính thành quả đó. Trong xu thế đi lên của đất nước, ai cũng được tạo cơ hội phát triển, không ai bị bỏ lại phía sau. Người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị ảnh hưởng của bão lũ, thiên tai khiến đời sống còn khó khăn thì Đảng, Nhà nước có chính sách an sinh xã hội, toàn xã hội đều chung tay giúp đỡ. Mục đích cuối cùng là để mỗi người dân Việt Nam đều được bình đẳng tận hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” đúng như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Như thế, “dân thụ hưởng” không dừng lại trên lý thuyết, trong nghị quyết, giấy tờ hay khẩu hiệu suông để hô hào mà được thể hiện sinh động, thuyết phục trong hiện thực đời sống mỗi người dân Việt Nam. Dù những phần tử cơ hội chính trị, thế lực thù địch có cố tình bóp méo, xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận được sự thật rằng đời sống của người dân Việt Nam đang ngày càng đi lên. Đó chính là động lực để người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; nỗ lực lao động, cống hiến để đất nước ngày càng phát triển thì những giá trị mà mỗi người được thụ hưởng sẽ ngày càng lớn hơn.

 


Lấy chiêu bài “nhân quyền” để mặc cả “lương duyên”, việc làm sai trái

             Chiêu trò “nắn gân”, “vừa đấm vừa xoa”

Hoa Kỳ muốn nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Đó là thiện chí, rất đáng trận trọng. Thế nhưng, bằng việc ban hành “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” và các phán xét sai trái về tình hình thực hiện nhân quyền ở Việt Nam, họ đã và đang phủi đi thiện chí, lòng tốt của mình.

Việc tung ra các luận điểm sai trái, xuyên tạc sự thật, thậm chí còn nói xấu, đổi trắng thay đen, vu cáo Việt Nam “không có nhân quyền”, “Đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền” là điều không thể chấp nhận. Phải chăng đây là chiêu bài “vừa đấm vừa xoa” của những người luôn tự đắc cho mình cái quyền ban phát sức mạnh kinh tế, khoa học và công nghệ với sự thao túng của đồng đô la, muốn người khác phải phục tùng vô điều kiện trước khi thực hiện hành vi “ban ơn”, “đem đến những điều tốt lành” cho Việt Nam theo kiểu phương Tây “mặc cả”, “nắn gân”?

Không nói ra mọi nhẽ nhưng người dân Việt Nam hiểu rõ chiêu trò “rung cây dọa khỉ” của phương Tây đối với việc ban bố “chính sách ngoại giao thân thiện” ở Việt Nam kèm theo điều kiện “cải cách một Nhà nước để nó tồn tại độc lập, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, còn chiêu bài nhân quyền chỉ là cái cớ. Thực là nực cười khi phương Tây còn chưa hiểu rõ “người mình muốn yêu” là ai; hơn thế, lại chưa hiểu thấu đáo lịch sử Việt Nam hiện đại, chưa đánh giá đúng kết quả hơn 35 năm đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thế thì “yêu làm sao được”.

Phải chăng họ ngộ nhận về mình, cho rằng họ đang đứng trên vị trí cao, có quyền phán xét “giá trị nhân quyền của Việt Nam” rồi ra các quyết định như thời xưa, đã ra nghị quyết đưa quân đi xâm lược, gây chiến tranh chống phá Việt Nam, viện trợ cho Ngụy quyền Sài Gòn, đánh phá miền Bắc Việt Nam.

Cần hiểu giá trị nhân quyền ở Việt Nam

Nhìn nhận, đánh giá sai về Việt Nam là chưa công tâm, khách quan; chưa thật rõ tình hình Việt Nam hiện nay; chưa thật rõ những gì Việt Nam đã đổi mới! Ở Việt Nam không có người dân lương thiện nào lại không hiểu vai trò duy nhất cầm quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố hơn 30 năm trước và hiện nay. Đây là sự thật, rõ như ban ngày và bản thân Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không hề giấu giếm điều đó trước nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Chính nó đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện; lớn mạnh, trưởng thành suốt 9 thập kỷ qua.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, ai cũng biết “tình hình đen tối như không có đường ra”, nhiều đảng chính trị cũng muốn cứu nươc, cứu dân nhưng do không có đường lối chính trị đúng đắn nên tất cả đều đã thất bại. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chính trị đúng đắn, được nhân dân ủng hộ; Đảng đã giương cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc và tự mình lăn lộn với phong trào cách mạng, cùng nhân dân “nếm mật, nằm gai” và cuối cùng đã giành được độc lập dân tộc, đã cứu được nhân dân, khẳng định tên nước, chủ quyền quốc gia, xây dựng cuộc sống mới. Thử hỏi, ai đã đem lại quyền chân chính làm người, độc lập, tự do cho nhân dân của một đất nước đã qua gần 100 năm bị thực dân Pháp và phát xít Nhật đàn áp dã man, tàn bạo là Việt Nam.

Phải nói cho rõ rằng, phương Tây đừng chơi khăm, lấy chiêu trò “dân chủ”, “nhân quyền” để mặc cả, ra yêu sách với Việt Nam. Họ thừa biết những kẻ chà đạp lên nhân quyền ở Việt Nam, cướp đi mạng sống của gần 3 triệu người dân vô tội chính là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với sự trợ giúp của bè lũ tay sai. Không ai có thể bác bỏ được sự thật, rằng thực dân Pháp đã xâm lược Việt Nam từ năm 1858, mãi đến năm 1954, họ mới bị quân và dân ta đánh cho tan tác và bị bại trận ở trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới cuốn cờ về nước. Rồi ngay sau đó, người Mỹ đã hất cẳng thực dân Pháp, nhảy vào xâm lược Đông Dương và Việt Nam, gây ra cuộc chiến tranh kéo dài hơn 21 năm với 4 chiến lược lớn và 8 đời tổng thống Mỹ nối tiếp nhau gây tội ác ở Việt Nam và cuối cùng đã đại bại bởi Đại thắng mùa Xuân 1975; buộc phải cuốn cờ về nước sau ngày 30-4 năm ấy, khi quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH và sau đó tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhân quyền của Việt Nam nằm ở chỗ đấy; quyền sống làm người của họ thể hiện ở chỗ đấy.

 Quan điểm sai trái, cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền” là không thể chấp nhận. Bởi vì, một Đảng Cộng sản đã gắn bó máu thịt với nhân dân, vì nhân dân, đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng bàn” với nhân dân,“chung lưng đấu cật” với nhân dân làm sao lại không phải là người đại diện chân chính cho quyền sống làm người chân chính của nhân dân, làm sao lại không phải là người đại diện cho lợi ích của nhân dân và toàn thể dân tộc; làm sao lại vi phạm nhân quyền như phương Tây cáo buộc, vu khống?

Để thực hiện mục tiêu chính trị, ở bên kia bán cầu, những người có chức, có quyền trong giới chóp bu phương Tây đã nhìn nhận sai sự thật những gì đang diễn ra ở Việt Nam hay là họ đã cố tình làm ngơ sự thật diễn ra ở Việt Nam nên cố tình vu cáo “Việt Nam không có nhân quyền”, cho rằng “ở Việt Nam một ngày còn có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì một ngày đất nước này không thể có nhân quyền”.

Vậy nhân quyền là gì, nếu như Đảng Cộng sản Việt Nam không đứng ra gánh vách trách nhiệm lãnh đạo cách mạng và kiên quyết đấu tranh giải phóng dân tộc thì ai sẽ làm đây? Nếu cứ để người dân đất nước này “mãi chịu kiếp ngựa trâu, làm dân nô lệ, không có Tổ quốc”, Đảng có đang tâm không? Phải chăng việc Đảng Cộng sản Việt Nam chăm lo từng cái ăn, cái mặc, sự học hành và chữa bệnh của người dân; chăm lo xóa đói, giảm nghèo không phải là việc làm nhân đạo, có ý nghĩa nhân quyền?  Phải chăng Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo nhân dân sống theo mô thức nhân quyền của phương Tây, phải đi theo cái gậy “dân chủ tư sản” của phương Tây thì mới có nhân quyền? Không phải là như vậy!

Quyền sống làm người – giá trị và niềm tin sâu sắc

Người dân Việt Nam có được cuộc sống hôm nay đã nói rõ nhân quyền là gì; tự nó đã nói rõ như thế nào là nhân quyền, quyền công dân của một nước nhân dân có độc lập, tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tuyệt đại đa số người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đi theo Đảng, đang ra sức đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để dần dần khắc phục những hạn chế, khuyết điểm vốn có của một nước đi lên CNXH chưa từng trải qua chế độ TBCN với những hạn chế do nền kinh tế tiểu nông đem lại.

Điều đó đã được Đảng ta tuyên bố công khai nhiều lần trong các văn kiện của Đảng, kể từ khi Đảng mới ra đời và xuyên suốt 93 năm qua. Lời tuyên bố nhất quán: Nước được độc lập, tự do nhưng nhân dân không đủ no, đủ mặc, không được học hành; cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn, chưa được hưởng đầy đủ các giá trị của tự do, độc lập, thì một ngày như thế Đảng coi trách nhiệm của mình là chưa hoàn thành, có khuyết điểm trước nhân dân. Đúng là, phải vì nước vì dân, có dũng khí Đảng mới dám thừa nhận khuyết điểm, “tự soi tự sửa” để dám làm; dám quyết định các quyết sách có lợi cho nhân dân; quyết không chịu sự kém cỏi, lạc hậu do hạn chế của lịch sử để lại.

Bằng các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược, Đảng, Nhà nước ta đang ra sức đấu tranh để khắc phục hạn chế, khuyết điểm; đưa đất nước phát triển, tiến lên; nhân dân có cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc; thật sự là chủ, làm chủ; nước ta là một nước dân chủ. Vì vậy, Đảng sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của nhân dân cũng như góp ý của bạn bè quốc tế để sớm sữa chữa, tiến bộ. Đó là sự thật, đã và đang diễn ra hằng ngày để đất nước thay da đổi thịt. Đó chính là nhân quyền, nhân văn, nhân ái, nhân tình.

Ai đó cho rằng Việt Nam không có nhân quyền, “Đảng Cộng sản Việt Nam thủ tiêu nhân quyền, đàn áp tôn giáo”, “thực hiện chính sách dân tộc thiếu nhân văn” là thiếu thiện chí, hoàn toàn bịa đặt, vu cáo; không thể chấp nhận. Ở Việt Nam, mọi người dân đều có quyền tham gia đóng góp ý kiến và dân chủ bàn bạc các quyết sách của Đảng, tham gia xây dựng nền dân chủ XHCN. Tự nhân dân tín nhiệm bầu các chức danh của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo và thấy không cần thiết phải thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”. Hơn thế, Việt Nam không cần lập ra các đảng phái riêng, đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là quyền của nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ở Việt Nam, các tổ chức chính trị, nghề nghiệp đều có tôn chỉ, mục đích của mình khi bảo vệ quyền dân chủ cho giới của mình, bình đẳng trong hệ thống chính trị về quyền con người, quyền công dân. Ở Việt Nam, người dân có quyền, được quyền lựa chọn những người có uy tín đứng ra đại diện cho quyền lợi của mình hoặc bãi miễn những đại biểu khi thấy họ không còn xứng đáng theo Hiến pháp Việt Nam, đúng như điều Bác Hồ đã nói “đuổi mấy ông quan cách mạng”, bọn sâu mọt và tham nhũng ra khỏi bộ máy của Đảng, chính quyền của Nhà nước; khước từ những kiến nghị trái với đạo lý, pháp lý, pháp luật của Việt Nam, làm tổn hại đến lợi ích của người dân. Việc bầu cử một cách công khai, dân chủ, bằng phiếu kín để cử ra các đại biểu thay mặt mình qua các nhiệm kỳ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đã chứng minh sức sống của nền dân chủ XHCN và ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Cho nên, các nhà dân chủ tư sản ở phương Tây cần hiểu cho rõ nhân quyền ở Việt Nam và tại sao người dân Việt Nam không muốn áp dụng, rập khuôn máy móc các mô thức, mô hình dân chủ tư sản của phương Tây vì nó không phù hợp với Việt Nam; không cần đối với Việt Nam. Phương Tây không nên dùng ý chí chủ quan để tự khẳng định nền dân chủ tư sản là tuyệt đỉnh, tối ưu, cần ban phát, áp dụng chung cho nhân loại, trong đó có Việt Nam. Bởi lẽ, bất cứ hệ quy chiếu nào, mô thức nào cũng chỉ là tương đối, nó phù hợp với nước này nhưng lại không phù hợp với nước khác, khi các chế độ xã hội có những lợi ích khác nhau, sự xung đột và đối kháng giai cấp cũng rất khác nhau. Cho nên đừng tự đắc, đem định kiến và sự áp đặt vô căn cứ để quy kết, vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam không có dân chủ, vi phạm nhân quyền – khi họ toàn tâm toàn ý “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, ngoài lợi ích của nhân dân, họ không có lợi ích nào khác. Các học thuyết, quan điểm về nhân quyền của phương Tây không cần cho Việt Nam.

Sự quy tụ, kết tinh đạo lý và lẽ phải

Đại đa số người dân Việt Nam hiểu rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện chân chính và tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, cho nên tất cả các chính đảng muốn chống cộng, chống Đảng, đều sớm hay muộn, trở thành lực lượng chống nhân dân, cứ nhìn lại cho kỹ lịch sử Việt Nam thời chiến tranh thì rõ, những đảng giương cao ngọn cờ chống cộng đều là công cụ chính trị nằm trong tay bọn cướp nước và bán nước.

Ngày nay cũng vẫn là như vậy, một số người muốn nhân danh “cấp tiến”, có cái nhìn ảo tưởng, muốn đóng vai trò các “chí sĩ yêu nước mới” để ban phát nhân quyền ở Việt Nam theo mô thức, phong cách phương Tây cũng sẽ không hơn các bậc tiền bối của họ. Sự ảo tưởng này sớm hay muộn cũng sẽ tan vỡ như bọt xà phòng. Đó là một điều chắc chắn. 

Hoa Kỳ không nên dùng đạo luật nhân quyền quái gở để mặc cả nhiều điều “mới lạ” với Việt Nam, gây sức ép cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều phi lý ấy chắc chắn không được nhân dân Việt Nam chấp nhận vì nó phản tiến bộ xã hội, đi ngược lại lợi ích chính đáng của dân tộc và nhân dân Việt Nam.

 Cần nhớ rằng mối lương duyên và quan hệ “thân tín” giữa Việt Nam với Hoa Kỳ là rất cần thiết, rất cần củng cố nhưng phải trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và luật pháp quốc tế; không can thiệp vào công việc của nhau. Có như thế nó mới thật sự cần thiết cho cả hai bên Việt Nam – Hoa Kỳ. Nếu dùng đạo luật về nhân quyền và hệ thống quan điểm sai trái, áp đặt, ép Đảng Cộng sản Việt Nam đi ngược lại Cương lĩnh, chủ trương, đường lối chính trị của mình thì đó là điều thiếu thiện chí, hoàn toàn không tốt lành.

Điều đó thể hiện sự thiếu tôn trọng, thiếu tin cậy lẫn nhau. Nếu thực sự muốn hòa bình, hữu nghị và mọi điều tốt đẹp khi đến với nhau, thì Hoa Kỳ không nên bám giữ, níu kéo bóng ma của quá khứ, cần hướng tới tương lai tươi đẹp trên tinh thần xây dựng đầy tính nhân văn, nhân đọa, đúng nghĩa nhân quyền./.

 

SỰ CHẮP VÁ PHIẾN DIỆN CỦA NHỮNG KẺ CHỐNG PHÁ

           Như định kỳ hằng năm, một nhóm “hậu duệ” của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở Mỹ tự dán nhãn là “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” (MLNQVN) lại công bố cái gọi là “Báo cáo nhân quyền tại Việt Nam 2021-2022” với vẻ ngoài “đồ sộ” gồm 8 chương, 3 phụ lục, 105 trang “đánh giá” tình hình thực hiện các nhóm quyền vốn được liệt kê trong các văn bản, công ước quốc tế về nhân quyền. Không nằm ngoài dự đoán, những thông tin sai lệch trong Báo cáo chỉ nhằm hạ uy tín của Việt Nam trước thềm bỏ phiếu thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025.

Box: Dù cố gán ghép sản phẩm thành “báo cáo” nhưng bản chất lại không khác gì tài liệu chắp vá bao biện, chạy tội, tẩy trắng cho những kẻ vi phạm pháp luật, chống phá đất nước cực đoan, quá khích, đã bị xử lý nghiêm minh.

          Box: Báo cáo tập hợp các lập luận, tư liệu, phát ngôn qui kết, cáo buộc của các tổ chức phi chính phủ, truyền thông có thái độ thiếu khách quan, ác cảm, thù hằn với Việt Nam như Hội anh em dân chủ của Việt Tân, RFA, HRW… Họ xem những tư liệu, phát ngôn của những tổ chức này là căn cứ, cơ sở xác thực cho báo cáo của mình.

“Chạy tội” vô lối cho những kẻ chống phá đất nước

Đúng bài “truyền thống” sản xuất báo cáo nhân quyền các năm trước, MLNQVN tuyên bố rất hùng hồn rằng báo cáo này “giải trình một cách trung thực tình hình nhân quyền tại Việt Nam”, “được thực hiện với sự cộng tác của một số người hoạt động nhân quyền tại Việt Nam”, “được kiểm chứng qua các nguồn dữ liệu mở”. Mục tiêu để chứng minh báo cáo giữa kỳ UPR chu kỳ ba của Bộ Ngoại giao Việt Nam “đã tô hồng cho bức tranh nhân quyền” và nhằm vận động các quốc gia không bỏ phiếu thuận cho Việt Nam gia nhập Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 sắp tới. Tuy nhiên, bất cứ ai đủ kiên nhẫn đọc hết tài liệu này, đều thấy ngay được nội dung và chất lượng sản phẩm cách rất xa lời quảng bá và chưa có được bất kỳ sự “tiến bộ” nào hơn so với các báo cáo hàng năm trước đây. Dù cố gán ghép sản phẩm thành “báo cáo” nhưng bản chất lại không khác gì tài liệu chắp vá bao biện, chạy tội, tẩy trắng cho những kẻ vi phạm pháp luật, chống phá đất nước cực đoan, quá khích, đã bị xử lý nghiêm minh. Xuyên suốt báo cáo, nếu không chỉ đòi “trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện” cho số chống đối, thì đều là đòi “quyền” cho những kẻ chuyên có hoạt động tuyên truyền chống phá đất nước, chẳng hạn đòi quyền tự do ngôn luận, quyền tự do thông tin, quyền tự do đi lại, quyền lập hội, quyền lập “đảng đối lập”, quyền điều hành đất nước,…“không giới hạn” cho những kẻ đang đã, đang bị Công an điều tra, xử lý về các tội xâm phạm an ninh quốc gia (ANQG). Thậm chí xa hơn và mục tiêu chính là để dọn đường cho những kẻ chống phá Nhà nước “thuận lợi” trong gây “chính biến”, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Toàn bộ báo cáo này đều đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp và các điều khoản trong tội xâm phạm ANQG, đòi thông qua quyền biểu tình, quyền lập hội…

Tệ hại hơn, Báo cáo đánh tráo kẻ khủng bố, kẻ giết người, kẻ gây rối ANTT, kẻ trốn thuế, kẻ xúc phạm hay xâm hại lợi ích cá nhân khác…đang bị điều tra, bị tạm giam, hay chấp hành án phạt tù, thậm chí tử hình là “tù nhân lương tâm và tù nhân tôn giáo”, miễn là những kẻ đó được “phong trào chống cộng” ủng hộ vì dám dùng bạo lực, vũ lực, sử dụng ngôn từ phản đối chế độ, chống lại lực lượng Công an. Chẳng hạn như đòi phóng thích toàn bộ 290 “tù nhân chính trị và tôn giáo” được liệt kê trong báo cáo vì lý do họ chỉ là người hoạt động “ôn hòa, bất bạo động”, “bất đồng chính kiến” với Nhà nước, chế độ nên bị bắt bớ, trả thù, trong số đó có cả những kẻ giết người man rợ trong vụ án Đồng Tâm hay băng nhóm “Hiến pháp” nhận tiền từ những kẻ khủng bố lưu vong đánh bom trụ sở Công an, chính quyền, hay những kẻ đòi ly khai trong dân tộc thiểu số (như số tay chân FULRO trong các tổ chức “Tin Lành Đềga”, số thành viên người Mông của tổ chức tôn giáo trái phép Dương Văn Mình,…), chống lại chính sách thống nhất, đoàn kết 54 dân tộc.

Không chỉ vậy, báo cáo này là sự tập hợp các lập luận, tư liệu, phát ngôn qui kết, cáo buộc của các tổ chức phi chính phủ, truyền thông thiếu khách quan, ác cảm với Việt Nam như RFA, HRW, VOA Việt ngữ, BBC Việt ngữ hay các tổ chức phản động như Việt tân, BPSOS… Có thể nói, nếu muốn tìm kiếm tư liệu bảo kê, chạy tội cho tù nhân và kẻ chống phá Nhà nước Việt Nam, thì thể loại báo cáo nhân quyền hằng năm của MLNQVN là ví dụ điển hình.

Một số nội dung dựa vào lời nói bị cáo, bị can, tù nhân và thân nhân số “dân chủ” trong tù qui kết Việt Nam vi phạm quyền được xét xử công bằng và phải trả tự do “ngay tức khắc và vô điều kiện cho những tù nhân chính trị và tù nhân tôn giáo”.

Xuyên tạc sự quản lý của Nhà nước

Cũng vẫn là những luận điệu xuyên tạc Nhà nước “hạn chế quyền tiếp cận thông tin”, đàn áp tự do ngôn, bằng chứng mà báo cáo đưa ra vin vào việc Việt Nam ban hành Luật báo chí 2016, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước… cũng như việc yêu cầu các doanh nghiệp quản lý mạng xã hội Facebook, Google, kênh Youtube, gỡ bỏ tin, bài xấu độc… Đây là những biện pháp quản lý nhà nước mà bất kỳ quốc gia nào cũng áp dụng để bảo vệ ANQG và trật tự an toàn xã hội.

Chỉ có thể nói, những kẻ soạn thảo ra báo cáo nhân quyền như MLNQVN giống như kẻ “có tật giật mình”, phàm chuyên vi phạm pháp luật, chuyên làm điều xấu nên mọi việc quản lý Nhà nước thông thường trở thành “cản trở quyền” phạm tội của họ!

Một ví dụ điển hình của cái gọi là chụp mũ, qui kết khi báo cáo cho rằng Chính phủ Việt Nam vi phạm quyền sống, quyền tự do an ninh thân thể, thể hiện ở vấn nạn buôn người, đánh đồng tình trạng mại dâm xuyên biên giới, môi giới hôn nhân với người nước ngoài, xuất khẩu lao động đều là “buôn người” và đều là do Chính phủ “tiếp tay” cho nạn buôn người. Căn cứ để qui kết là do “sự nghèo túng gây nên bởi chính sách bất công xã hội của Nhà nước”, tức là các nạn nhân rơi vào tay tội phạm, rơi vào vấn nạn trên là do Nhà nước thực thi chính sách bất công khiến họ nghèo, dẫn đến họ là nạn nhân của buôn người!?! Trong khi trên thực tế, phần đông người xuất khẩu lao động đều có thu nhập tốt, cuộc sống sung túc hơn, trình độ lao động tốt hơn, thậm chí không ít “làng tỷ phú” xuất hiện trong nước nhờ xuất khẩu lao động đem lại.

Thử dùng công cụ google chủ đề này, sẽ thấy hàng loạt bài viết, videoclip gán ghép chủ trương xuất khẩu lao động là “buôn người” từ các trang, kênh của tổ chức phản động như Việt Tân, BPSOS, Chân trời mới… Do vậy, có thể hiểu, đây là một sự “thống nhất về mặt nhận thức” hay nói cách khác “đóng khung về nhận thức” trong cái gọi là “giới chống cộng” nhằm xuyên tạc chủ trương, chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam.

Với hệ qui chiếu này, phải chăng, mọi hố sâu phân biệt giàu nghèo ngày càng xa vời vợi ở các nước “tư bản tiến bộ”, tình trạng người nghèo bị bần cùng hóa, bị đẩy ra khỏi nhà, sống lang thang… ngày càng gia tăng ở các “xứ sở thiên đường” kia không phải do “chính sách bất công” của Chính phủ các nước đó, không phải “vi phạm nhân quyền”? Hay bởi những vấn nạn phân biệt giàu – nghèo, bần cùng hóa người lao động xảy ra ở các xứ sở thiên đường không phải là lỗi của Chính phủ, nhưng xảy ra ở Việt Nam thì, đương nhiên, là lỗi của Chính phủ?!

Qua đó có thể thấy, một trong những mục đích báo cáo nhân quyền của MLNQVN, nhất là việc lên án tình trạng mua bán người nhằm phụ họa cho báo cáo quốc tế về buôn người của Bộ Ngoại giao Mỹ và tung hứng, thổi phồng thêm đánh giá tiêu cực, thiếu khách quan về công tác phòng, chống tội phạm mua bán người ở Việt Nam. Nhưng xem ra chất lượng báo cáo của cựu binh VNCH trong MLNQVN lại sai cách, thiển cận, thiếu logic đến tệ hại nên thay vì tưởng phụ họa cho quan thầy lại thành ra phản tác dụng? Bởi nếu phản ánh này có một phần đúng, chẳng phải nó cho thấy tình hình nhân quyền ở nhiều nước tư bản đang rất tệ hại, chứ không hề tốt đẹp như những kẻ tự nhận là “đấu tranh dân chủ cho Việt Nam”.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam cũng như các quốc gia khác, dù theo thể chế chính trị nào, khó tránh khỏi vấn nạn, tệ nạn xã hội hay gặp khó khăn, hạn chế trong phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, bất chấp nỗ lực của chính quyền các cấp trong nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân về vật chất và tinh thần với những thành tựu được cộng đồng quốc tế ghi nhân trên tất cả các lĩnh vực giáo dục, y tế, phát triển con người, Báo cáo của MLNQVN với những thông tin quy kết, sai lệch càng thể hện rõ bản chất chống phá cực đoan của tổ chức này. Việc họ xem những thứ tư liệu, lập luận trong Báo cáo là căn cứ để vận động chính giới các nước không ủng hộ Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 cũng thật khôi hài vì những dư luận tiến bộ chẳng mấy ai quan tâm những kiểu báo cáo xuyên tạc như thế này.

Thực tế, báo chí trong nước không ít lần phản ánh, việc các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài như Việt tân, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, tổ chức tôn giáo chưa được công nhận (Phật giáo Việt Nam thống nhất), Hội H.O. cứu trợ thương phế binh và quả phụ Việt Nam Cộng hoà, hay Dòng Chúa cứu thế (38, Kỳ Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh), với nhiều thủ đoạn, kể cả ép buộc người Việt Nam ở nước ngoài quyên góp tiền để hỗ trợ cho một số ít thương phế binh Việt Nam Cộng hoà chỉ là âm mưu kích động “niềm tự hào bán nước”, “dựng lại thây ma quân lực Việt Nam Cộng hoà”, một đội quân tay sai của những kẻ xâm lược, có nhiều tội ác đối với Nhân dân, đối với đất nước; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một số rất ít thương phế binh chỉ vì vài trăm USD, mà phải viết đơn, hoặc trả lời phỏng vấn các đài nước ngoài có thái độ chống Việt Nam với những lời lẽ sai sự thật, xuyên tạc, khi cho rằng “bị áp bức”, “bị phân biệt đối xử”, hoặc “không có tự do, dân chủ” (buộc phải thế mới được nhận tiền!). Còn tụ điểm đội lốt thiện nguyện tại Dòng Chúa cứu thế ở Kỳ Đồng bị chính giáo hội Công giáo của họ giải tán vìhoạt động phức tạp của nó và phản ứng dư luận trong nước. Điều này hẳn MLNQVN cố tình không biết trước công bố công khai của Dòng Chúa cứu thế ở Kỳ Đồng?

Còn cái yêu sách đòi thương phế binh VNCH phải được hưởng mức sống, mức hỗ trợ, không bị “kỳ thị” như thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng thì hẳn MLNQVN nên đòi Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách người có công với Chính phủ Mỹ thì hợp tình, hợp lẽ, hợp luân thường đạo lý hơn nhiều?

Trên đây chỉ là một vài ví dụ phản ánh bản chất của cái gọi là Báo cáo nhân quyền của MLNQVN là nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền Việt Nam và tìm lý lẽ biện minh cho tội lỗi của những kẻ chống phá đất nước, gây nhiễu loạn xã hội. Tuy nhiên, nhìn vào chất lượng báo cáo và tham vọng ảo tưởng của những kẻ soạn thảo, là nhằm vận động các nước không bỏ phiếu ủng hộ Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 thì thấy ngay ảo tưởng của họ không thay đổi, bất chấp Việt Nam đã phát triển với một vị thế khác hẳn bối cảnh, hoàn cảnh 47 năm trước!■

Tạp chí Nhân quyền Việt Nam số tháng 9/2022

 

SỰ THẬT VỀ CÁI GỌI LÀ “HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH TỰ DO TÔN GIÁO QUỐC TẾ”

         “Hội nghị Thượng đỉnh Tự do Tôn giáo Quốc tế lần thứ ba – IRF 2023” diễn ra trong 2 ngày cuối tháng 01 và đầu tháng 02/2023 tại Mỹ, đã được tổ chức “Ủy ban cứu người vượt biển” (BPSOS) của Nguyễn Đình Thắng tự xưng là đơn vị đồng tổ chức sự kiện, đưa ra lời mời gọi tham gia và tuyên bố rằng “vị thế” này giúp họ “tạo điều kiện” cho người dân trong nước lên tiếng về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. BPSOS quảng bá rằng, việc tham dự Hội nghị này mang lại cơ hội “tiếp xúc nhiều chục văn phòng dân biểu hạ viện và thượng nghị sĩ”, được “thông báo với các tham dự viên của hội nghị về thực trạng tôn giáo ở Việt Nam”, được “Báo cáo trực tiếp với các giới chức Bộ Ngoại giao và Uỷ Hội Mỹ về Tự do Tôn giáo Quốc tế các vụ vi phạm mới xảy ra” và được “kêu gọi dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ lên tiếng về các hồ sơ vi phạm và yêu cầu Bộ Ngoại giao chế tài các thủ phạm liên can”. Tuy nhiên, những bài quảng cáo này có sát sự thực không? Nếu tìm hiểu kỹ hơn về sự kiện vừa diễn ra đầu tháng 2 này, người ta sẽ thấy rất nhiều vấn đề cần phải xem xét lại

Hội nghị có thật sự là “sự kiện hàng đầu thế giới về tự do tôn giáo”?

 Trước hết cần khẳng định ngay “Hội nghị Thượng đỉnh Tự do Tôn giáo Quốc tế” (IRF Summit) không hề là “sự kiện hàng đầu thế giới về tự do tôn giáo” như BPSOS tuyên bố. Trong thực tế, hội nghị này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2021, đến nay mới tiếp diễn đến kỳ thứ 3. Hội nghị này được cho là di sản của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump – người không ngừng tận dụng các cộng đồng tôn giáo cực đoan để kiếm phiếu trong kỳ bầu cử. Nên nhớ rằng, đám người này bao gồm cả những linh mục Tin lành dạy con chiên uống thuốc tẩy để chữa COVID-19, và những giáo phái tuyên bố rằng Trump là “thiên thần” được Chúa phái xuống để phán xét nhân loại, ta sẽ thấy cần dè dặt trước độ nghiêm túc của cái “phong trào bảo vệ tự do tôn giáo” mà BPSOS can dự.

Cả ba kỳ hội nghị đều được tổ chức ở Mỹ. Người khởi xướng phong trào IRF không phải là một nhà lãnh đạo tôn giáo, mà là  Chris Seiple – thành viên cấp cao của Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại. Chủ tịch của IRF Summit, Greg Mitchell, có một trang web themitchellfirm.com. Trang web mở đầu bằng dòng chữ: “để tăng cường an ninh quốc gia và bảo đảm quyền hạn và tự do của bạn…”.

Giới thiệu về Hội nghị này, tờ báo The Washington Times ngày 01/02/2023 thừa nhận, mục đích chính của nó là xuất phát từ nhận thức “Tự do tôn giáo không chỉ đang bị đe dọa ngày càng tăng trên toàn cầu từ Trung Quốc và các chế độ toàn trị khác,… mà còn đối mặt với những thách thức từ phe cánh tả trong các nền dân chủ vững mạnh như Nhật Bản nhằm kiềm chế các nhóm tín ngưỡng kể từ sau vụ ám sát Cựu Thủ tướng Shinzo Abec vào năm ngoái”. Ngay phát biểu khai mạc hội nghị thông qua video gửi đến của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ và một số quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ khác đều nhấn mạnh, trọng tâm của nó nhắm vào Trung Quốc, Nga và một số quốc gia mà Mỹ dán nhãn “độc tài” như Myanmar, Syria, Afghanistan. Như vậy, Hội nghị này bản chất là công cụ chính trị của Mỹ nhắm vào các quốc gia mà Mỹ đang bao vây, cấm vận, phong tỏa hoặc gây áp lực chính trị, tức là mục tiêu “quốc tế hóa”, “chính trị hóa” vấn đề tôn giáo mà thôi.

Thành phần tham dự Hội nghị, bản chất không khác nào “góp gạo thổi cơm chung” của các tổ chức dân sự hoạt động trên lĩnh vực tôn giáo và nhà tài trợ. Đóng nhiều tiền thì được được góp nhiều “tiếng nói”, được có logo trang trọng trên phông nền Hội nghị. Bản chất chẳng khác nào một diễn đàn cho các cá nhân, tổ chức gắn mác “đấu tranh tự do tôn giáo” khắp thế giới sang Mỹ chầu, trình báo tình hình nhân quyền với chính quyền Mỹ, vận động chính sách, chứ không phải là nơi đại diện các quốc gia đến bàn thảo, nghị sự về tôn giáo, không thật sự có tính quốc tế.

Vị thế của BPSOS trong cái gọi là “Hội nghị Thượng đỉnh Tự do Tôn giáo Quốc tế”?

Trong lời kêu gọi, BPSOS tự quảng bá mình là thành phần đồng tổ chức hội nghị thượng đỉnh và quán xuyến 2 mảng lớn của hội nghị: phát huy lãnh đạo trẻ và điều phối chiến dịch tự do cho tù nhân lương tâm tôn giáo. BPSOS cũng đồng tổ chức mảng “quyền tự do tôn giáo bị khước từ” của hội nghị. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ tịch BPSOS, ở trong Ban Chỉ đạo của hội nghị thượng đỉnh và Ban Chỉ đạo của Bàn tròn Tự do Tôn giáo Quốc tế, mạng lưới của hơn 1.000 nhà đấu tranh cho tự do tôn giáo toàn cầu, và lãnh trách nhiệm về khu vực Đông Nam Á. BPSOS là tổ chức khởi xướng mạng lưới Tự do Tôn giáo hay Niềm tin Khu vực Đông Nam Á…

Đọc đoạn trích này, ai cũng tưởng Nguyễn Đình Thắng và BPSOS được hội nghị chọn làm đồng tổ chức vì có chuyên môn. Ai ngờ trong hội nghị non trẻ này, ai góp tiền vào thì được chọn làm bên đồng tổ chức! Như vậy, BPSOS chỉ dùng tiền quyên góp để mua danh, rồi lại dùng danh để kêu gọi thêm tiền quyên góp nhằm thu hồi vốn mà thôi. “Lời kêu gọi” tham dự hội nghị thực ra cũng là lời quảng cáo cho BPSOS. Nhìn vào việc nhóm của Thắng chỉ được phát biểu ở một forum nhỏ bên lề Hội nghị, không có diễn giả được phát biểu tại Hội trường chính cho thấy mức đóng góp của BPSOS không nhiều. Suốt thời gian diễn ra Hội nghị, trang twitter của Ban tổ chức không hề có hình ảnh nào giới thiệu về đoàn Việt Nam của Nguyễn Đình Thắng. Khôi hài nhất là trong buổi diễn thuyết nhỏ, Nguyễn Đình Thắng tranh thủ nhét ảnh của Y Pum Byă – đối tượng phá họa chính sách đoàn kết, đang phải chịu án phạt tù, dưới chân bục phát biểu rất nhếch nhác, nhằm thu hút người để ý.

Thành phần tham dự của đoàn Nguyễn Đình Thắng, dù được tâng bốc 4 tuần trước Hội nghị là 50 người, là hùng hậu nhất tại Hội nghị này, nhưng quanh đi quanh lại vẫn là những gương mặt cũ quen thuộc chuyên tham dự từ những năm trước, thành viên hay tay chân của BPSOS. Điểm mới là năm nay có thêm linh mục Phan Văn Khải – kẻ nhân chuyến sang Mỹ chục năm trước trốn lại và đang sống lưu vong dưới mác du học. Cả đoàn chụp ảnh gom từ đứa trẻ con mới được 29 người nhẵn mặt với bất kỳ ai biết đến BPSOS và các hoạt động mang danh tổ chức này ở Mỹ. Thế mới thấy, trình độ lừa phỉnh của Nguyễn Đình Thắng trắng trợn ra sao và vì sao các kiều bào, đám phản động, chống đối trong nước cũng đều gọi y là “siêu lừa”.

Độ tín của các báo cáo nhân quyền mà BPSOS đưa ra cũng là điều đáng bàn. Trong số các thành phần dán nhãn người Việt đến dự hội nghị này, tín đồ Phật giáo Hòa hảo cực đoan ở hải ngoại chiếm số đông nhất. Trong các kỳ đại hội trước, họ đã “mách” Mỹ rằng Việt Nam “vẫn đang bắt giữ, truy tố, xét xử các nhà hoạt động tôn giáo trong nước”. Các ảnh được trưng bày “nạn nhân tự do tôn giáo ở Việt Nam” vẫn là 3 gương mặt Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Hóa, Y Pum Bya như Hội nghị năm 2022 – đều là những kẻ bị bắt, kết án vi phạm pháp luật Việt Nam không liên quan gì đến tín ngưỡng, tôn giáo. BPSOS và các nhóm liên quan thường áp việc Công an Việt Nam bắt tín đồ của một tôn giáo trở thành vấn đề tự do tôn giáo. Khôi hài nhất là một trong những mục tiêu đoàn BPSOS đem đến “tấu” tại Hội nghị này là vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp tự do tôn giáo đối với “Thiền Am bên bờ vũ trụ”, bất chấp hành vi, chứng cứ bị kết tội của Lê Tùng Vân và đồng bọn thực sự là “tuyên truyền, kích động, xúc phạm uy tín của Công an huyện Đức Hòa (Long An), xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm ông Trần Ngọc Thảo (pháp danh Thích Nhật Từ), gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương”, không hề dính dáng gì đến cản trở hay cấm sinh hoạt tín ngưỡng gì với nhóm này. 

Nhìn vào diễn biến cái gọi là “Hội nghị Thượng đỉnh về Tự do Tôn giáo Quốc tế”, các diễn đàn mạng xã hội của Việt Nam bình phẩm rằng Mỹ biến vấn đề tự do tôn giáo thành trò hề của thành phần bát nháo. “Hội nghị gì mà chính giới các nước hoặc đại diện cho các quốc gia được nêu tên hoàn toàn không có mặt tại Hội nghị… và cái gọi là “phái đoàn Việt Nam” thật ra là những kẻ có tư tưởng chống phá đất nước, những kẻ vi phạm pháp luật, không hề mang tính đại diện cho Việt Nam mà dùng từ như vậy”, là một trong nhiều ý kiến được cộng đồng mạng xã hội lên tiếng.  

Nhìn vào thành phần mà Hội nghị này vận động bảo trợ như Nguyễn Bắc Truyển, chúng ta sẽ thấy Nguyễn Bắc Truyển bị kết án 11 năm tù, 3 năm quản chế về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, chứ không phải vì sinh hoạt tôn giáo. Hoạt động lật đổ của Truyển đã kéo dài nhiều năm và có tính hệ thống, chứ không chỉ diễn ra gần đây.

Hoặc trường hợp Nguyễn Văn Hóa, bản chất bị bắt, truy tố vì cộng tác với RFA và các tổ chức phản động lưu vong, kiếm tiền bằng viết thuê xuyên tạc về tình hình trong nước.

Từ vụ Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Hóa có thể thấy thực chất của các hoạt động “bảo vệ quyền tự do tôn giáo” của họ. Nhằm tận dụng mọi cơ hội để hạ uy tín chính phủ Việt Nam, cũng như để “giải cứu” thành viên của mình, họ đã đánh đồng chuyện bắt những người hoạt động lật đổ với chuyện đàn áp tự do tôn giáo. Dư luận nước ngoài thì tự bịt tai che mắt trước những trò bịp này, phần vì họ chỉ nhận thông tin từ thành phần chống phá Nhà nước Việt Nam ở hải ngoại, phần vì họ chỉ cần cớ để kiếm lá phiếu trong các cộng đồng tôn giáo cực đoan hoặc phục vụ cho ý đồ chính trị có lợi cho chính sách “cây gậy và củ cà rốt” của Mỹ. Với tất cả những vấn đề này, “Hội nghị Thượng đỉnh Tự do Tôn giáo Quốc tế” ít nhiều mang dáng dấp của một màn kịch chính trị.

Những năm qua, ở Việt Nam, nhờ có chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo ngày càng được hoàn thiện và được thực hiện nhất quán trong thực tiễn, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày càng phong phú; số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày càng được đảm bảo tốt hơn.

So sánh pháp luật của một số nước trong khu vực và thế giới cho thấy: khi tôn giáo tổ chức các hoạt động đông người tại cơ sở thờ tự, phải tự thuê bảo vệ làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông, an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, kiểm nghiệm vệ an toàn thực phẩm. Nếu để xảy ra vi phạm, chính quyền sẽ căn cứ vào pháp luật và xử phạt tổ chức, cá nhân tôn giáo đó, nhưng ở Việt Nam, các tổ chức tôn giáo tổ chức các hoạt động tôn giáo có đông đảo nhân dân tham gia, đều được chính quyền hỗ trợ với mục tiêu cao nhất bảo đảm an toàn để nhân dân yên tâm thực hiện nghi lễ tôn giáo.

Có thể khẳng định rằng, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam những năm qua là rất đa dạng, sôi động và phong phú. Những thành tựu đó không chỉ nhân dân trong nước, trong đó có tín đồ các tôn giáo ghi nhận, mà còn được cả cộng đồng quốc tế thừa nhận. Việc Việt Nam lần thứ hai trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025 với số phiếu ủng hộ của 145/189 nước đã một lần nữa khẳng định quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ở Việt Nam nói riêng được bảo đảm, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, không gì có thể phủ nhận.

 

Tỉnh táo nhận diện đúng các luận điệu xuyên tạc về đổi mới chính trị – xã hội ở Việt Nam

             Hơn 36 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…

Thủ đoạn tinh vi, khó lường  

Về chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao biện làm thay Nhà nước”… Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng…”; “hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”… Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là hình thức, kém hiệu quả”… Vấn đề xã hội, họ cho rằng: “Mất dân chủ, vi phạm nhân quyền…”. 

Nhận diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo… và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI… để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc… để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận (comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ. Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị-xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị-xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta.

Thực tế sinh động, minh chứng thuyết phục

Thành tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị-xã hội với bước đi, hình thức phù hợp “toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(1). Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”(2) đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn.

Những kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy đầy đủ… những hạn chế đó không thể ngày một, ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất.

Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị-xã hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua.

 

Cảnh giác với âm mưu xúi giục, kích động thanh niên

             Đúng vào dịp tuổi trẻ cả nước tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn gia tăng chống phá với các luận điệu, như: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên”(!); “nhiệm vụ của thanh niên là phải đứng lên đấu tranh chống độc tài, đòi tự do, dân chủ”(!)…

Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới. Tuy nhiên, dịp này, các thế lực phản động tập trung hướng vào kêu gọi, kích động đối tượng thanh niên càng cho thấy dã tâm và sự nham hiểm của chúng. Nếu những người trẻ tuổi thiếu hiểu biết và bản lĩnh sẽ dẫn tới hoài nghi, dao động, phai nhạt lý tưởng, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo.

Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, chăm lo cho lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí, sứ mệnh to lớn của thanh niên; xác định thanh niên là rường cột của nước nhà, Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước, đồng thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ và lắng nghe ý kiến của thanh niên… Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện những chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh… tạo thuận lợi để thanh niên trưởng thành, đảm trách những vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị.

Thực tế trên là rất rõ ràng và không ai có thể phủ nhận. Qua đó càng cho thấy, luận điệu quy chụp “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái. Âm mưu xúi giục, kích động thanh niên “đứng lên đòi tự do, dân chủ, chống độc tài” của các thế lực thù địch là hết sức phản động, thâm độc. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không rơi vào cái bẫy nham hiểm của những kẻ dã tâm chống phá đất nước, luôn tìm mọi cách “chọc gậy bánh xe”, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ nước ta.

 

ĐỪNG LẤY GIÁO VIÊN LÀM BIA DƯ LUẬN

         Giáo viên thời đại này thật khó khi bên cạnh việc trau dồi kiến thức, khả năng sư phạm thì giáo viên hiện nay chịu sự giám sát, phán xét từ phụ huynh cho đến cánh báo chí. Không hiểu phóng viên báo Vietnamnet có quá ấn tượng bởi trước đây đã bị đòn roi của thầy cô nhưng chắc chắn nhờ những lời “quát mắng” đó mà anh phóng viên nên người, trở thành một nhà báo như bây giờ. Lẽ dĩ nhiên, cùng với thời gian, quan điểm và phương pháp giáo dục có sự thay đổi, chúng ta không khuyến khích sử dụng phương pháp bạo lực để rèn dũa học sinh nhưng cũng không phải vì thế mà buông lỏng, chiều chuộng vô điệu kiện học sinh của mình. Các em học sinh vẫn phải cảm nhận được sự nghiêm khắc trong giáo dục để hoàn thiện tri thức và nhân cách của mình hơn.

Đồng thời, mong rằng phóng viên Vietnamnet cũng đừng vì chỉ tiêu bài, chỉ tiêu view mà lấy câu chuyện làm quà. Việc cố tình hướng lái câu chuyện giáo viên được 10 nghìn trên 1 cháu khi đi tham quan những tưởng như một nguồn thu nhập lớn, một sự bắt tay, sự lại quả của công ty du lịch đối với những giáo viên đi cùng. Nhưng thật ra, số tiền đó không lớn so với 1 ngày công lao động khi quản hàng chục cháu cùng một lúc và tính trách nhiệm rất cao khi phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho chuyến tham quan của các cháu. Đây cũng không phải là sự lai quả của công ty du lịch mà là số tiền chính các công ty du lịch hỗ trợ, nhờ chính các cô giáo viên đi theo kèm, quản lý học sinh. Đời sống giáo viên hiện nay khó khăn, vất vả, các anh phóng viên đừng vì gia tăng thu nhập của mình qua vài bài báo mà lại có ý định đập vỡ bát cơm, giảm thu nhập của người khác như vậy.

Nghề giáo cũng lắm gian truân và mong rằng, đừng lợi dụng những sự việc, sự kiện nhỏ này kia để từ đó biến các thầy cô giáo trở thành tấm bia để các vị chĩa mũi dùi dư luận vào họ. Hãy để những giáo viên đó yên tâm công tác, yêu nghề, sống hết mình vì nghề.

 

30/3/23

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh

        Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, vẫn còn một số người có nhận thức chưa đúng, thậm chí những kẻ cơ hội, bất mãn chính trị đã phê phán, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần nhận diện, bác bỏ những luận điệu sai trái này.

Thứ nhất, cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng.

Một số người bị dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Sinh thời, tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”(1). Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tổ chức UNESCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”(2). Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này.

Một số người có nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Hai quan điểm này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người.

Về quan điểm thứ nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Về quan điểm thứ hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin từng có giá trị nhưng đã bị lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt qua thì Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Từ đó họ cho rằng, nên đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin thì bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn như vốn có.

Bên cạnh đó, một số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” như trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.

Từ đó, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng, khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(3).

Vậy mà, khi Đảng kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết là Đảng ta “đấu đá nội bộ”, “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực”. Họ làm ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu” để đánh giá, phán xét Đảng.

Danh nghĩa là họ đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Thứ ba, phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Một số người đã có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”, “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại.

Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi”(4).

Những người này đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo” một cách máy móc để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai”. Do đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.

 


Sự tái diễn mưu sâu, kế hiểm ở Việt Nam

             Trước tình hình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới vô cùng phức tạp như hiện nay, muốn bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đạt hiệu quả; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống hệ tư tưởng tư sản, lối sống thực dụng phương Tây và sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại mà những người chống cộng đang cố tình gieo rắc, thẩm thấu, muốn nó xâm nhập nhanh vào Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta còn phải vạch trần sự giả dối và kiên quyết, kiên trì đấu tranh khắc phục những tàn dư tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản do chế độ cũ để lại, còn tồn tại dai dẳng ở nước ta, trong Quân đội ta.

Cùng với việc chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng ta, những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đang cố tình tấn công xuyên tạc bản chất của quân đội cách mạng, bôi nhọ thanh danh “Bộ đội Cụ Hồ”, tái diễn âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội nhằm tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, biến Quân đội hành đội quân vô dụng.

 Âm mưu cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của các thế lực thù địch là đem hệ tư tưởng và chính trị tư sản, chủ nghĩa cơ hội – xét lại thay thế chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, họ cố tình làm cho Quân đội ta từ bỏ lý tưởng XHCN, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chấp nhận con đường TBCN theo sự sắp đặt của phương Tây và những người theo đuôi họ; làm cho Đảng, Nhà nước ta mất chỗ dựa vững chắc là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân để dễ bề thao túng chính trị vì mục đích phản động.

Chiêu thức “gây gió từ bên ngoài để tạo bão ở bên trong” là dùng loại vũ khí tư tưởng tư sản để tạo ra tâm lý hoảng sợ trước sức mạnh của kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ phương Tây với cách “đánh hội đồng” như kiểu NATO, EU và phương Tây đang áp dụng tấn công, bao vây, cấm vận, phong tỏa nước Nga hiện nay để “làm con ngáo ộp” đe dọa những người dân “yếu bóng vía” ở Việt Nam.

Từ đó, họ ra sức xuyên tạc chủ trương, đường lối đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Cổ suy cho chiêu trò này là việc sùng bái, ca ngợi một chiều sức mạnh của đồng đô la, của kinh tế thị trường và “sự phóng khoáng của nền dân chủ tư sản” và lối sống thực dụng phương Tây. Đây là cái cách mà những người đối lập với Đảng ta dùng nó để mê hoặc, làm lóa mắt không ít người dân “mơ mộng cuộc sống mới” bằng sự hấp dẫn của đồng đô la và lối sống thực dụng phương Tây cùng với ảo vọng “đổi đời”, “không cần làm vẫn sung sướng”. Họ hy vọng rằng, những tư tưởng tư sản bằng nhiều con đường khác nhau, nhất là thông qua mạng xã hội, sớm đến Việt Nam, xâm nhập, thẩm lậu nhanh chóng vào đầu óc người dân, nhất là cán bộ, chiến sĩ quân đội và lớp trẻ, biến họ thành những con người khác, ngưỡng mộ lối sống phương Tây, theo đuôi họ.

Thế nhưng, do mất cảnh giác, một số cơ quan kinh tế và báo chí ở nước ta đôi khi đã đăng tải những thông tin có lợi cho đối phương một cách vô ý thức, đã ca ngợi không công cho CNTB và phương Tây. Sự mập mờ, không phân biệt rõ đúng sai, lợi và hại trong thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta: Việt Nam sẵn sàng làm bạn, làm đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thông qua con đường mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), đã bị các thế lực thù địch lợi dụng đưa hệ tư tưởng tư sản, các sản phẩm văn hóa xấu độc và lối sống thực dụng của phương Tây xâm nhập vào nước ta.

Điều này ít nhiều đã làm cho không ít người dân, nhất là một số người có học thức, đã từng “Tây học” có tâm lý “dị ứng” với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật, các nguyên của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cho rằng học thuyết này đã lỗi thời, không phù hợp với Việt Nam, cần “thay máu cho hệ tư tưởng”… Từ đó, tán phát, làm lây lan hệ tư tưởng tư sản và lối sống thực dụng phương Tây với sự kích hoạt những ham thích mù quáng cũng như sự ham muốn, khoái lạc một cách thiếu tỉnh táo, thiếu óc phê phán, thiếu phản biện đối với một số sản phẩm trí tuệ, văn hóa mà phương Tây cho là “cấp tiến”, là “mốt”, hết lời ca ngợi, đang tìm mọi cách du nhập, thẩm lậu vào nước ta.

Không bao giờ mắc mưu của địch

Quân đội là một xã hội thu nhỏ và đương nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng tư sản và nọc độc của các sản phẩm văn hóa độc hại và lối sống thực dụng của phương Tây, dù chưa phải là nhiều bởi con em bộ đội từ nhân dân mà ra, từ xã hội mà vào quân đội. Song, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, xét một cách tổng thể, sự xâm nhập trực tiếp của hệ tư tưởng tư sản và văn hóa phương Tây vào Quân đội tất nhiên là khó khăn hơn so với môi trường và đời sống dân sự. Bởi, Quân đội ta có kỷ luật “sắt”, đã có bề dày lịch sử truyền thống gần 80 năm theo Đảng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Hơn thế, Quân đội ta đã trải qua “thử lửa chiến tranh” nên bản lĩnh rất kiện định vũng vàng, vì thế chẳng có thế lực thù địch nào có thể lung lạc được bản chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của người quân nhân cách mạng. Cho nên, các thế lực thù địch đã và đang cố gắng tìm mô thức, thủ đoạn mới nhằm pha loãng chính trị của Đảng ta trong Quân đội bằng cách bôi đen hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, xuyên tạc bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; từ đó tạo ra sự thờ ơ về chính trị trong toàn quân đến mức có thể thực hiện được âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, “phi đảng cộng sản” Nhà nước Việt Nam.

Điệp khúc này đã diễn trong quân đội Liên Xô và quân đội các nước Đông Âu trước đây. Bây giờ họ muốn tái diễn nó ở Việt Nam nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” thông qua thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta, đe dọa sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Chúng ta đã dự lường hết những biến chứng, các kịch bản mà họ rắp tâm thực hiện để chia rẽ, gây sự khủng hoảng về lãnh đạo trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta với sự hình thành các phe phái, các nhóm lợi ích, cũng như sự khác biệt về quan điểm chính trị trong hạt nhân lãnh đạo của Đảng.

Với cách nhìn đó, các thế lực thù địch đã nhầm to và thất vọng về sự kiên định, không bị tha hóa, biến chất của Đảng ta trong Quân đội. Đảng ta đứng vững, không bao giờ mắc mưu “diễn biến hòa bình”, bị “phi chính trị hóa” quân đội. Rõ ràng, kịch bản này không thể thực hiện ở Việt Nam bởi sự lãnh đạo của Đảng ta thể hiện rõ sự đoàn kết, nhất trí cao; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đều ý thức rõ ràng về sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng, trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng ta đã giữ gìn sự trong sáng như giữ gìn con ngươi của mắt mình khi tuyên truyền và đem lại nhận thức chung cho toàn xã hội; mọi người dân đều nhận thức rõ: bất cứ ai, thế lực nào có hành vi chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì đó là một tội ác và nó lập tức bị lên án, phán xét theo đạo lý và pháp lý Việt Nam.

Cho nên lề thói thực dụng chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản, các sản phẩm văn hóa độc hại của phương Tây được các thế lực thù địch sử dụng nhằm pha loãng môi trường chính trị ở Việt Nam; qua đó phá hoại chính trị, tư tưởng, tổ chức quân đội đã bị quân và dân ta tẩy chay, luôn đề phòng, cảnh giác cao; không bao giờ mắc mưu địch. Những người chống cộng đã chủ quan, nhầm lẫn và tự chuốc lấy thất bại bởi các âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam đã bất thành.

Cần nói cho rõ rằng, điều mong muốn của các thế lực thù địch là thông qua tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản, gieo rắc lối sống thực dụng, các sản phẩm văn hóa phương Tây vào Quân đội là cố tình làm tăng lên số lượng những tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của Quân đội ta có tư tưởng và lợi ích theo lề thói thực dụng và lợi ích nhóm trong Quân đội. Những người chống cộng đã hy vọng là đến một lúc nào đó sức mạnh của đồng đô la có thể phát huy tác dụng, mua chuộc được những người đứng đầu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; từ đó làm biến dạng tổ chức Quân đội, hiện thực hóa âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội; gạt bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ra khỏi Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sự khoét sâu mâu thuẫn giữa cấp trên và cấp dưới, giữa đồng cấp với nhau, giữa các đơn vị với nhau…sẽ làm mất dần tinh thần đoàn kết nhất trí, sự tương thân, tương trợ lẫn nhau của một đội quân cách mạng. Theo đó, mục tiêu, lý tưởng, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong Quân đội ta, của các chi bộ, tổ đảng chỉ còn lại quan hệ bằng lợi ích vật chất lạnh lùng theo lợi ích nhóm. Đến lúc ấy, hệ tư tưởng tư sản và sác sản phẩm văn hóa xấu độc của phương Tây chiếm lĩnh trận địa tư tưởng, văn hóa trong Quân đội; lề thói thực dụng chủ nghĩa sẽ giương oai, tác quái, làm cho sức mạnh chiến đấu của Quân đội suy giảm nghiêm trọng; sợi dây thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân và Quân đội sẽ bị cắt đứt; Đảng sẽ “chênh vênh” vì mất chỗ dựa. Cái điệp khúc “đánh bại quân đội Liên Xô” được tái diễn ở Việt Nam có thể thành công.

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – bí kíp mọi thành công

Các thế lực thù địch hy vọng rằng, trong các tổ chức đảng và công tác đảng, công tác chính trị của Quân đội sẽ không còn hiệu lực, sẽ không còn sự tự phê bình và phê bình; các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cuộc vận động “phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” chỉ còn là khẩu hiệu trên giấy. Sự toan tính thực dụng lan tràn từ trên xuống dưới, khi mỗi quân nhân chỉ lấy lợi ích làm động cơ phục vụ. Điều đó sẽ dẫn đến thái độ, hành vi cầm chừng, các quân nhân cũng chỉ nghĩ làm gì và làm như thế nào để mình có lợi sẽ thay thế sự trung thực, dũng cảm đấu tranh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng.

Chúng ta đã nhận diện rất rõ âm mưu thâm độc của chiêu trò “phi chính trị hóa” quân đội – một đòn đánh thâm sâu, cốt để tách sự lãnh đạo của Đảng ra khỏi Quân đội ta, làm cho Quân đội bị lạc đường, chệch hướng XHCN, Quân đội trở nên vô dụng; lúc đó, các thế lực thù địch sẽ nhanh chóng hạ gục Đảng, tước bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội ta.

Bài học này đã được áp dụng thành công ở Liên Xô và Đông Âu nhưng các thế lực thù địch không thể áp dụng ở Việt Nam và họ đã thất bại thảm hại khi cuộc đấu tranh chống “phi chính trị hóa”, “phi đảng hóa” ở Việt Nam đã trở thành nhiệm vụ chính trị quan trọng của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta. Trong đó, sự kỳ vọng áp đặt sự thống trị của hệ tư tưởng tư sản của phương Tây lên xã hội Việt Nam đã thất bại thảm hại.

Chúng ta đã luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quân đội và trong xã hội Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta đã giáng cho chủ nghĩa thực dụng và văn hóa phương Tây những đòn chí mạng. Nguy cơ đe dọa, làm suy yếu và phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của “Bộ đội Cụ Hồ” đã hoàn toàn thất bại.

Một đội quân có truyền thống, bản chất cách mạng gần 80 năm, đã “đánh đông dẹp tây”; làm cho hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã phải cuốn cờ, rút hết quân về nước. Một quân đội như như thế thật anh hùng, đâu dễ “bắt nạt”, một quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân thì chắc chắn không cho phép bất cứ thế lực nào thực hiện “phi đảng cộng sản” trong xã hội Việt Nam; “phi chính trị hóa” trong Quân đội ta. Đó là một điều chắc chắn./.

 

ĐỪNG LẤY GIÁO VIÊN LÀM BIA DƯ LUẬN

         Giáo viên thời đại này thật khó khi bên cạnh việc trau dồi kiến thức, khả năng sư phạm thì giáo viên hiện nay chịu sự giám sát, phán xét từ phụ huynh cho đến cánh báo chí. Không hiểu phóng viên báo Vietnamnet có quá ấn tượng bởi trước đây đã bị đòn roi của thầy cô nhưng chắc chắn nhờ những lời “quát mắng” đó mà anh phóng viên nên người, trở thành một nhà báo như bây giờ. Lẽ dĩ nhiên, cùng với thời gian, quan điểm và phương pháp giáo dục có sự thay đổi, chúng ta không khuyến khích sử dụng phương pháp bạo lực để rèn dũa học sinh nhưng cũng không phải vì thế mà buông lỏng, chiều chuộng vô điệu kiện học sinh của mình. Các em học sinh vẫn phải cảm nhận được sự nghiêm khắc trong giáo dục để hoàn thiện tri thức và nhân cách của mình hơn.

Đồng thời, mong rằng phóng viên Vietnamnet cũng đừng vì chỉ tiêu bài, chỉ tiêu view mà lấy câu chuyện làm quà. Việc cố tình hướng lái câu chuyện giáo viên được 10 nghìn trên 1 cháu khi đi tham quan những tưởng như một nguồn thu nhập lớn, một sự bắt tay, sự lại quả của công ty du lịch đối với những giáo viên đi cùng. Nhưng thật ra, số tiền đó không lớn so với 1 ngày công lao động khi quản hàng chục cháu cùng một lúc và tính trách nhiệm rất cao khi phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho chuyến tham quan của các cháu. Đây cũng không phải là sự lai quả của công ty du lịch mà là số tiền chính các công ty du lịch hỗ trợ, nhờ chính các cô giáo viên đi theo kèm, quản lý học sinh. Đời sống giáo viên hiện nay khó khăn, vất vả, các anh phóng viên đừng vì gia tăng thu nhập của mình qua vài bài báo mà lại có ý định đập vỡ bát cơm, giảm thu nhập của người khác như vậy.

Nghề giáo cũng lắm gian truân và mong rằng, đừng lợi dụng những sự việc, sự kiện nhỏ này kia để từ đó biến các thầy cô giáo trở thành tấm bia để các vị chĩa mũi dùi dư luận vào họ. Hãy để những giáo viên đó yên tâm công tác, yêu nghề, sống hết mình vì nghề.

 

THÁI HẠO - “THẦY GIÁO” MẶC CHIẾC ÁO “3 SỌC”

         Với nhiều người, việc được trở thành một giáo viên là một điều vô cùng cao quý, được mang trong mình chữ danh “nhà giáo” là sự vinh dự không phải ai cũng có thể đạt Tuy nhiên, điều này lại không đúng với “Thái Hạo” một thầy giáo đã bỏ nghề để đi theo tiếng gọi của “dân chủ nhân quyền”, chuyên xuyên tạc và công kích chống phá chế độ.

Câu chuyện “cắt tóc học sinh” tuy đã được giải quyết một cách êm đẹp và lắng xuống, nhưng đối với Thái Hạo thì đây vẫn là cơ hội để hắn “lộng ngôn” đả kích, bôi nhọ nền “giáo dục” của Việt Nam. Những thông tin mà hắn đưa ra hoàn toàn là phiến diện, mang ý kiến chủ quan của một kẻ “cuồng dân chủ”, luôn tìm cách để “bêu riếu” xuyên tạc nói xấu Đảng, Nhà nước. Bài viết “Về cây gậy trong giáo dục” được đăng trên trang Tiếng Dân là một minh chứng rõ nét cho mục đích của hắn.

Lẽ ra chính “Thái Hạo” phải là người làm gương, phải đưa ra những ý kiến mang tính xây dựng và đóng góp để giúp giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, bởi hắn cũng đã có thời gian dài gắn bó với nghề giáo. Tuy nhiên ngược lại, Hạo lại thường xuyên đưa ra những lập luận vô căn cứ, những luận điệu mang tích cực đoan mang sặc mùi “phản động”.

Mỗi nhà giáo đều mong muốn là đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp trồng người để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp và phát triển. Tuy nhiên với người thầy “bỏ áo” như Hạo, hắn lại có những mong muốn và khát khao lớn hơn mang tên “đấu tranh vì dân chủ nhân quyền”.

Có lẽ việc công kích giáo dục, vẽ ra những luận điệu nhằm bôi nhọ, nói xấu và chống phá Chính quyền đã trở thành sở thích của Thái Hạo từ khi hắn theo chân vào làng dân chủ “rởm” này.