1. Kỳ
nghỉ lễ dài ngày kỷ niệm các ngày lễ lớn: Chiến thắng 30-4, Quốc tế Lao động
1-5 và Chiến thắng Điện Biên Phủ 7-5 đã diễn ra trong không khí hân hoan chào mừng
thắng lợi vĩ đại của dân tộc; để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp; nhiều tín hiệu vui
với khí thế mới, tinh thần mới: hào hứng, phấn khởi, an toàn, tiết kiệm, đánh dấu
thời khắc đất nước chuyển mình, hồi sinh sau những tháng này gồng mình chống đại
dịch Covid-19; đẩy lùi những khó khăn, thách thức do dịch bệnh hoành hành và những
tác động không thuận của tình hình thế giới gây ra; đưa sinh hoạt của toàn quân
và toàn dân trở lại cuộc sống bình thường mới. Trên khắp mọi miền đất nước, các
ngả đường ngược xuôi Nam – Bắc, nườm nượp các đoàn xe, đoàn người nối đuôi nhau
về quê xum họp gia đình, đi du lịch, thăm thú các danh lam thắng cảnh của đất
nước trong niềm vui chiến thắng của một quốc gia có hòa bình, độc lập, tự do;
nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Thế nhưng, một
số phần tử chống cộng cực đoan ở ngoài biên giới Tổ quốc đã cấu kết với các phần
tử bất mãn, cơ hội chính trị và phản động trong nước, cùng vào hùa với nhau, viết
tin, bài, dàn dựng các video clip, các cuộc phỏng vấn và trả lời phỏng vấn để tung
lên mạng xã hội những thông tin xấu, độc nhằm xuyên tạc lịch sử chiến thắng hào
hùng của dân tộc, mà thực chất là, muốn viết lại lịch sử, bóp méo sự thật về những
cuộc chiến tranh thần thánh, chính nghĩa, chống xâm lược của quân và dân ta;
xúc phạm và hủy hoại thanh danh các anh hùng liệt sĩ, đồng chí, đồng bào – những
người đã chiến đấu, hy sinh vì nước vì dân.
Chính họ chứ
không phải là ai khác, đã buộc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn
đàm phán, chấp nhận rút hết quân về nước, mở ra các điều kiện, tiền đề thuận lợi
để quân và dân ta “đánh cho ngụy nhào”; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác
Hồ và khát vọng hòa bình; giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa non
sông gấm vóc về một mối; cả nước đi lên CNXH; tiến hành công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc tôn vinh
các cựu binh Pháp, Mỹ và các tướng, tá, binh sĩ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn với
các yêu sách về phong danh hiệu, thực hiện chế độ liệt sĩ; đưa hài cốt một số
nhân vật cấp cao và một số tướng lĩnh Quân đội Sài Gòn vào Nghĩa trang Liệt sĩ
Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như đòi xét lại công trạng người viết Lời Tuyên bố
đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh…, đã xới lại lịch sử cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước với các luận điệu xuyên tạc sự thật, làm rối loạn môi trường chính
trị ở nước ta trước thềm Hội nghị Trung ương 7 khóa XIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam là sai trái, không thể chấp nhận.
2. Những
người có quan điểm đối lập với Đảng ta đã vượt qua “lằn ranh đỏ” của những giới
hạn về cái đúng và sai; đã phủ nhận những giá trị của văn hóa hòa bình, nhân
văn, nhân đạo. Điều đó không những kích hoạt cho việc phục hồi sự hận thù dân tộc,
phá hoại khối đạị đoàn kết toàn dân mà còn “đổ thêm dầu vào lửa” nhằm bôi đen
hiện thực cuộc sống; làm nhiễu loạn môi trường văn hóa chính trị – tinh thần ở
nước ta; cản trở việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Mọi việc làm
của họ đều nhằm mục đích đen tối: bài xích, kích động; hạ thấp uy tín, vị thế của
Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ; phủ nhận thành quả cách mạng, thành tựu
công cuộc đổi mới; tính ưu việt của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.
Trong đó, mũi nhọn của các chiêu trò chống phá là nhằm hạ thấp uy tín, vị thế của
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và Công an cũng như giá trị, ý
nghĩa lịch sử và hiện thực của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7-5-1954 “lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng mùa Xuân 1975…
Rõ ràng là,
những người ở bên kia chuyến tuyến và các đối tượng bất mãn, vẫn cay cú, thâm
thù với chế độ, tiếp tục “nhai lại điệp khúc” cũ với chiêu thức mới, gọi Chiến
thắng 30-4-1975 là “Ngày Quốc hận”; coi “các sự kiện lịch sử diễn ra trong
Tháng 4-1975 là “hội chứng tháng Tư đen tối”.
Từ đó, họ vu
cáo cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam giai đoạn 1954 –
1975 là “cuộc nội chiến giữa hai miền Nam – Bắc” do “ông Hồ và tập đoàn Hà Nội
chủ mưu”, v.v.. Nguy hiểm và ác ý hơn, một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị
đã lợi dụng sự kiện này để tuyên truyền sai trái trên các phương tiện truyền
thông quốc tế, với các loại ngôn ngữ khác nhau để cáo buộc Đảng Cộng sản Việt
Nam “gây ra cuộc chiến tranh đẫm máu” với mưu đồ: hạ thấp uy tín, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Từ chiêu trò
này, họ xúi giục thế hệ trẻ Việt Nam và kiều bào ở nước ngoài “tẩy chay Đảng”,
“ly dị chế độ XHCN”, “quay lưng lại dân tộc”. Qua đó, kêu gọi giới trẻ, nhất là
các lưu học sinh – những người đã “tu nghiệp ở phương Tây” đứng dậy đấu tranh,
rũ bỏ “chế độ đảng độc quyền”, xây dựng chế độ mới “tự do, dân chủ”, “nhân quyền”
theo “lý tưởng, mô hình và văn hóa phương Tây”. Tất cả các chiêu trò ấy là nhằm
mục đích “lôi kéo, giành giật lớp trẻ”, làm suy giảm niềm tin của các tầng lớp
nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập”, mở rộng “dân chủ, nhân quyền”; thành lập “xã hội dân sự”, các “văn đoàn độc
lập”, “hội nhà báo độc lập” ở Việt Nam và “phi đảng hóa” các tổ chức chính trị
– xã hội…
3. Hơn
ai hết, Nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều
đã rõ tính quy luật của chiến tranh: Mạnh thắng, yếu thua. Bên thắng phải là
bên mạnh, bên yếu phải là bên thua. Việt Nam thắng giặc Pháp, giặc Mỹ; hiển
nhiên Việt Nam phải mạnh; cho dù sự khởi đầu, có lúc chưa mạnh; thậm chí là non
yếu. Thế nhưng, sự quan tâm, chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân và chuyển hóa lực
lượng; gia tăng sức mạnh nội sinh, nhất là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, ý chí quyết tâm dám đánh, quyết đánh thắng quân xâm lược đã làm cho
quân và dân ta mạnh dần lên, đủ sức đập tan mọi âm mưu, hoạt động chống phá của
các đội quân xâm lược hùng mạnh. Điều này đúng như lời Bác Hồ đã dạy; “Nay tuy
châu chấu đá vui. Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”.
Sự thật
này đã bác bỏ quan điểm sai trái cho rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta từ năm 1954 đến năm 1975 là “cuộc nội chiến
giữa hai miền Nam – Bắc”; Việt Nam giành thắng lợi trong hai cuộc chiến ấy là
do “ăn may” bởi “sự tình cờ” do hoàn cảnh quốc tế đưa lại. Cả nhân loại đều đã
rõ: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta là
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và bè lũ tay sai – những thế lực đi ngược lại
lợi ích quốc gia – dân tộc; chà đạp lên nguyện vọng chính đáng của Nhân dân Việt
Nam muốn được sống trong hòa bình, độc lập, tự do; có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, quyền được sống làm người; khẳng
định và bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc có độc lập, chủ quyền; có tên trên bản
đồ thế giới.
Vì lẽ phải,
công bằng và đạo lý, chúng ta đã vượt lên mọi đau thương, mất mát; Nhân dân ta
một lòng một dạ đi theo Đảng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh thực hiện khát vọng
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vì lẽ đó, Đảng đã đề ra đường lối
kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo toàn dân, toàn quân
ta trên cả hai miền Nam – Bắc: quyết tâm đánh cho “Mỹ cút, ngụy nhào”; miền Bắc
thật sự là hậu phương lớn của miền Nam – tuyền tuyến lớn. Bằng bản lĩnh, trí tuệ
và máu xương, quân và dân ta đã “nếm mật nằm gai suốt 21 năm dòng” để đưa cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn.
4. Với
tinh thần “lấy sức ta mà giải phóng cho ta”, từ giữa năm 1972, khi viện trợ của
Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam có phần suy giảm mạnh, Đảng, Nhà nước ta vẫn
kiên quyết giữ vững mục tiêu của mình: độc lập dân tộc và CNXH.
Một mặt, Đảng,
Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền sâu rộng ở trong nước và
trên thế giới, làm cho mọi người hiểu rõ hơn sự nghiệp chính nghĩa của Nhân dân
Việt Nam; đồng thời, vạch trần tội ác của xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Mặt
khác, kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự lực tự cường; đặt lợi
ích quốc gia – dân tộc lên trên hết và trước hết.
Kiên định với
mục tiêu, đường lối chính trị – quân sự của mình, Đảng ta đã xử lý khôn khéo, mềm
dẻo các mối quan hệ quốc tế có lợi cho Việt Nam và luôn coi trọng vấn đề đoàn kết
quốc tế; nhất là đối với Liên Xô, Trung Quốc; xây dựng và củng cố liên minh chiến
đấu: Việt Nam – Lào – Campuchia. Qua đó, làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ: Vì sao
đế quốc Mỹ áp đặt chế độ thống trị thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam; Vì
sao đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược đối với một quốc gia có độc lập
chủ quyền; Vì sao Việt Nam dám đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ xâm lược, v.v..
Có thể khẳng
định rằng, sau 21 năm kiên quyết, kiên trì chiến đấu, Nhân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là Đại thắng mùa
Xuân 1975 lịch sử. Đây không chỉ là chiến thắng của niềm tin, ý chí, nghị lực
phi thường mà còn là thắng lợi của đường lối, tư duy chiến lược độc đáo, độc lập,
tự chủ, sáng tạo, của sách lược ứng xử khôn khéo, kiên quyết và hiệu quả của Đảng,
Nhà nước và Nhân dân ta.
Ai đó cho rằng,
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta kéo dài 21 năm, thực chất
là “cuộc nội chiến”; là “cuộc chiến tranh ủy nhiệm” do Liên Xô, Trung Quốc “chống
lưng”, “là sân sau của phe XHCN” là hoàn toàn sai lầm.
Thực tế chỉ
ra rằng, những người coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt
Nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ nên không đáng tự hào, chỉ là sự cố chấp, cố
tình đánh tráo khái niệm, ngụy biện. Họ đã “đội mũ ni che tai”, ngoảnh mặt làm
ngơ trước sự thật lịch sử vẻ vang, bi hùng của dân tộc. Điều đó đã làm họ mờ mắt,
thêm “nhúng sâu vào vũng bùn” của nhận thức; dẫn họ đến những sai lầm nghiêm trọng
trong hành động; đã xuyên tạc sự thật cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ Tổ quốc của Nhân dân ta; cần phải vạch mặt sự đê hèn, phản phúc ấy.
Thêm nữa, những
kẻ rêu rao rằng, ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân
ta là “ngày quốc hận” bởi “Đảng Cộng sản ra lệnh cho quân Bắc Việt tràn vào xâm
chiếm miền Nam”, “người Việt trị người Việt” là những luận điệu sai trái, sáo rỗng
và lừa bịp. Nó không thể làm người dân đất Việt mắc mưu địch bởi chính giá trị
lịch sử và ý nghĩa trọng đại của Chiến thắng 30-4-1975 cũng như thành tựu của
37 năm đổi mới đất nước đã phủ nhận quan điểm sai trái ấy. Hãy nhìn xem kỳ nghỉ
lễ: 30-4, 1-5 và 7-5 năm nay của Nhân dân ta đã nói lên sự thật: Đổi mới ở Việt
Nam đã thành công và Nhân dân ta đang được thụ hưởng các giá trị của 37 năm đổi
mới đất nước dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng.
Ai cũng biết
rõ để có ngày toàn thắng, quân và dân ta đã phải đổi bằng máu xương của gần 2
triệu anh hùng liệt sĩ, đồng chí, đồng bào, đã phải trải qua muôn vàn đắng cay
của sự hy sinh, gian khổ, thậm chí có những thời điểm rơi vào tình thế hiểm
nghèo, cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Hãy đến các Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc
gia Trường Sơn, Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Đường Chín và nhiều Nghĩa trang Liệt
sĩ trên khắp mọi miền đất nước sẽ hiểu cái giá của hòa bình, độc lập, tự do mà
Nhân dân ta đã phải trả giá, giành lại được.
5. Chiến
thắng là sự kết tinh ý chí, nghị lực, tinh thần đoàn kết, triệu người như một của
quân và dân ta. Đó là biểu trưng sức mạnh“thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “quyết tử để Tổ
quốc quyết sinh”, “tất cả cho tuyền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Chính nó
đã tôi luyện và giúp quân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành thắng
lợi vẻ vang.
Điều đó cắt
nghĩa vì sao Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7-5-1954 và Chiến thắng
30-4-1975 của quân và dân ta lại được nhân loại tiến bộ trên thế giới hân hoan,
phấn khởi, thừa nhận, trân trọng, tự hào và ngưỡng mộ; gọi chiến thắng của Nhân
dân Việt Nam là chiến thắng của lương tri, nhân phẩm con người. Giá trị của máu
xương đã, đang kiến tạo nên sự kỹ vĩ của Việt Nam anh hùng; sự kết tinh của
hàng ngàn năm lịch sử dân tộc Việt Nam; là hành trang và tài sản vô cùng quý
báu để quân và dân ta tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Luận điệu sai trái cho rằng, Việt Nam thắng
các đội quân xâm lược hùng mạnh là do “tình cờ”, “ăn may”đã được lịch sử thế giới
hiện đại bác bỏ, vạch trần sự giả dối, lừa bịp ấy./.
0 nhận xét: