Quyền dân tộc tự
quyết là quyền tự quyết của Nhân dân về thể chế chính trị và con đường phát triển
của đất nước mình. Đó cũng là một giá trị cốt lõi của quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiểu rất sâu về điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần
đầu tiên trong lịch sử, thông qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945, đã gắn quyền
dân tộc – quốc gia tự quyết với quyền con người bằng việc kế thừa, phát triển
tư tưởng quyền “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc
– quốc gia; nói cách khác, Hồ Chí Minh đã mở rộng quyền con người để phát triển
rộng ra là quyền dân tộc tự quyết. Trong Hiến pháp 2013 của Việt Nam thể hiện
rõ thể chế chính trị Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là thể
chế do dân lựa chọn, vì dân phục vụ.
Trên thế giới,
Hiến chương Liên Hợp quốc khẳng định “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa
các dân tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”
(Điều 55). Trong mối quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia, các dân tộc
đa số và thiểu số đều bình đẳng để cùng hợp thành một dân tộc – quốc gia độc lập,
có chủ quyền, bình đẳng với nhau. Đương nhiên, chỉ những dân tộc – quốc gia mới
có quyền tự quyết định vận mệnh của mình và quyền tự quyết đó thuộc về Nhân
dân. Quan điểm này phù hợp với Hiến chương và các văn bản của Liên Hợp quốc
cũng như thực tiễn tại các quốc gia trên thế giới.
Điều đáng bàn
là trong pháp luật quốc tế, phải đến năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa mới
gắn quyền dân tộc tự quyết với quyền con người. Hai công ước này ở Khoản 1 Điều
1, đều nêu rõ: “1. Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền
đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển
kinh tế, xã hội và văn hoá”.
Trong khi luật
quốc tế hiện đại đã xác định bảo vệ, bảo đảm quyền con người và quyền dân tộc tự
quyết thì đó đây vẫn còn một số tổ chức, nhóm lực lượng ở phương Tây lại đưa ra
quan niệm tuyệt đối hoá quyền của mỗi cá nhân, nhất là các quyền dân sự và
chính trị. Từ đó họ đưa ra lập luận “quyền con người cao hơn chủ quyền quốc
gia”, “quyền con người không có biên giới”, để phủ nhận quyền của các dân tộc
có quyền tự quyết định vận mệnh của mình, nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của
nước khác. Không ai có thể phủ nhận một thực tế là quyền con người là giá trị
phổ quát, có tính toàn cầu, song cũng cần phải khẳng định quyền con người là một
giá trị lịch sử, gắn với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi dân tộc,
mỗi quốc gia.
Quá trình bảo đảm
quyền dân tộc tự quyết và quyền con người luôn phải xuất phát từ thể chế quyền
công dân hay thể chế chính trị – xã hội của quyền công dân của mỗi dân tộc, quốc
gia. Các dân tộc, quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền, công việc nội bộ của mỗi
dân tộc, quốc gia là do quốc gia tự quyết định, không thể có chuyện dân tộc quốc
gia nào đó coi thể chế quyền công dân của mình là khuôn mẫu quyền con người “có
tính phổ quát” toàn nhân loại để áp đặt cho các dân tộc, quốc gia khác.
Việt Nam có quá
trình lịch sử kháng chiến và xây dựng phát triển với nhiều giai đoạn đặc điểm
khác nhau. Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), việc giải quyết mối
quan hệ giữa quyền dân tộc tự quyết và quyền con người là nhằm bảo đảm quyền
con người, cả quyền cá nhân và quyền tập thể, phù hợp với pháp luật quốc gia và
quốc tế, trước hết là pháp luật quốc tế về quyền con người, trong điều kiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Việt
Nam thực hiện quyền dân tộc tự quyết và quyền con người tương thích với trình độ
phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam là đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phù hợp với thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tiếp
tục tích cực hoàn thiện hệ thống pháp luật, nội luật hóa các điều ước quốc tế
mà mình là thành viên, xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước
và các tổ chức kinh tế, xã hội trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người và
quyền dân tộc tự quyết; đồng thời xử lý nghiêm mọi hành vi xâm phạm quyền lợi hợp
pháp của công dân và xâm hại quyền lợi hợp pháp của quốc gia, dân tộc.
Việc bảo vệ, thực
hiện quyền dân tộc tự quyết và quyền con người ở Việt Nam luôn phải song hành với
việc chủ động, tích cực đối thoại, đấu tranh phòng, chống những quan điểm, hành
động của tổ chức, cá nhân trong việc xuyên tạc, kích động chống phá chế độ
chính trị – xã hội vốn là hàm nghĩa cốt lõi của quyền dân tộc tự quyết.
Không ai có thể
và không ai có quyền áp đặt việc lựa chọn thể chế chính trị của một quốc gia,
dân tộc…/.
Trần Công Nghệ
0 nhận xét: