30/4/22

Kiểm tra để cảnh tỉnh, răn đe


Phát biểu tại phiên họp Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 27/4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, từ thực tế của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã rút ra kinh nghiệm hoàn toàn đúng cả về lý luận, thực tiễn và đường lối. Đó là công tác kiểm tra của Đảng phải đi trước một bước, kiểm tra dấu hiệu vi phạm, cứ có dấu hiệu là Ủy ban Kiểm tra (UBKT) có quyền vào kiểm tra.

Đây là kinh nghiệm hay, đúng nguyên tắc, kỷ luật Đảng trước, rồi đến kỷ luật về hành chính, tiếp đến là xử lý hình sự. Điều này phù hợp với đường lối và thực tiễn đã chứng minh là đúng, có kết quả tốt. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, các vụ án đã được xử lý nghiêm nhưng cũng rất nhân văn, tài sản thu hồi lớn, và cái lớn nhất vẫn là củng cố, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. 

Công tác kiểm tra Đảng phải “đi trước một bước” chính là sự thể hiện vai trò, tính chủ động trong kiểm tra, khi có dấu hiệu vi phạm cần làm rõ thì phải triển khai kiểm tra kịp thời, không để chậm trễ. Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của ngành kiểm tra Đảng, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, công tác kiểm tra luôn được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn. Là một chính đảng tiền phong cách mạng, ngay từ khi mới thành lập cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, muốn lãnh đạo thì phải kiểm tra. Trong Điều lệ Đảng tháng 10/1930 đã ghi rõ: “Trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách rất nghiêm khắc”.                        

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có kiểm tra mới huy động tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Theo Người, mục đích của công tác kiểm tra chính là phát hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong quá trình tổ chức thực hiện để hoàn thành tốt nhất công việc đề ra. Thông qua kiểm soát, những hạn chế, khuyết điểm được phát hiện và khắc phục kịp thời; nhờ có kiểm tra mà biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu, mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan, của các mệnh lệnh và nghị quyết.

Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng (ngày 29/7/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, công tác kiểm tra đều được quan tâm và điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý Nhà nước, hoạt động thi hành nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cán bộ, đảng viên.

Trong các nhiệm kỳ qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh với nhiều giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là việc ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII và mới đây là Kết luận tại Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII đã xác định kiểm tra, giám sát, kỷ luật là một trong 4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo đó, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng.

Xử lý nghiêm tập thể, cá nhân ban hành văn bản không đúng, không phù hợp hoặc thực hiện không nghiêm túc các nội dung nghị quyết, kết luận của Đảng; khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân thực hiện có hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức Đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và công khai kết quả để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Rà soát, hoàn thiện các quy định của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước.

Tăng thẩm quyền và đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm khi có dấu hiệu vi phạm hoặc chậm trễ, trì trệ, kém hiệu quả trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, xem xét tư cách đảng viên và phối hợp với các cơ quan chức năng có biện pháp ngăn chặn hành vi bao che, cản trở, gây khó khăn trong xử lý hoặc có dấu hiệu bỏ trốn. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng…

Để tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), công tác kiểm tra đã có nhiều đổi mới, được triển khai toàn diện, nghiêm túc, đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, có tác dụng và hiệu quả thiết thực trong công tác phòng, chống tham nhũng được cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Những kết quả đạt được của công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian qua đã thực sự góp phần đưa kỷ cương, kỷ luật của Đảng được tăng cường thêm một bước, nhiều cơ chế mới phòng ngừa vi phạm được bổ sung, nhận thức về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên được nâng lên…

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng còn bộc lộ những hạn chế, nhất là ở UBKT các địa phương, bộ, ngành. Điều này đã được chỉ rõ tại Hội nghị giao ban công tác kiểm tra ngày 25/4/2022. Theo đó, một số cấp ủy, UBKT chưa thật sự quyết liệt trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; chậm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch đã đề ra. Có nơi lựa chọn nội dung kiểm tra, giám sát chưa phù hợp với đặc điểm tình hình và yêu cầu công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị. Một số UBKT tỉnh ủy chưa thực hiện kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; cá biệt có nơi chưa thực hiện cả 3 nhiệm vụ cơ bản là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giám sát chuyên đề và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng…

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, để kiểm tra thực sự “đi trước một bước”, chúng tôi cho rằng, cần đẩy mạnh thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm. Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục cho các cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát; nắm vững quy chế, quy trình, chức năng, nội dung, nhiệm vụ của các tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, để người dân hiểu rõ và ủng hộ công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra không phải là “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, không phải kiểm tra nhiều thì làm giảm thành tích của đơn vị, địa phương mình mà cốt “trị bệnh cứu người”, lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng ngừa, uốn nắn, giáo dục. 

Thứ hai, công tác kiểm tra phải là bài bản, thường xuyên. Phải làm có kế hoạch, chương trình kiểm tra đảm bảo hiệu quả và phải tiến hành thường xuyên, coi công tác kiểm tra là một bộ phận cấu thành tất yếu trong quá trình lãnh đạo, quyết định sự thành bại trong công việc. Từ đó, hình thành ý thức tự trau dồi, rèn luyện, tự kiểm tra của mỗi cán bộ, đảng viên. 

Thứ ba, không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng ở các cấp. Kiểm tra là công việc khó khăn, phức tạp, đụng chạm đến quyền, lợi ích, sinh mệnh chính trị của đối tượng kiểm tra. Do đó, đòi hỏi tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ kiểm tra không những giỏi chuyên môn mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, quyết tâm cao, phải có phẩm chất, đạo đức để vượt qua các cám dỗ thường trực, đảm bảo việc kiểm tra được công tâm, khách quan. Đây là vấn đề rất quan trọng. Khi người dân bức xúc tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái, tham ô, tham nhũng ở nhiều lĩnh vực, địa bàn thì người dân trông chờ vào sự nghiêm minh, công tâm của UBKT, vào chính cán bộ kiểm tra. Nếu cán bộ kiểm tra bị mua chuộc, bị lợi ích hay bị các động cơ cá nhân làm “biến dạng” nội dung, kết quả kiểm tra, điều đó tạo hệ lụy nguy hiểm, khiến cái sai của cán bộ, đảng viên bị che đậy, bao bọc bởi những cái sai khác, như cái nhọt không bị nhổ bỏ mà còn phình to lên. 

Thứ tư, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm, phải đảm bảo sự thận trọng, khách quan, không “làm khó” đối tượng kiểm tra. Kiểm tra là để chỉ ra sai sót, nguyên nhân và tính chất mức độ để xử lý và uốn nắn. Song các kết luận kiểm tra liên quan sinh mệnh chính trị mỗi người, trong khi đó tình trạng nội bộ ở nhiều nơi có diễn biến phức tạp, có các hiện tượng đấu đá, gây nhiễu, tố cáo trắng đen lẫn lộn. Do đó, việc kiểm tra phải thận trọng, đánh giá tỉ mỉ tài liệu, tránh kết luận sai lệch, đồng thời tránh bỏ sót, lọt, tránh sự nể nang, xuề xoà… Xử lý đúng người, đúng tính chất sai phạm, đảm bảo nghiêm minh sẽ có tác dụng phòng ngừa, cảnh tỉnh lớn. Mục đích cuối cùng của kiểm tra là nhằm đánh giá những kết quả, hạn chế, phân tích nguyên nhân, đưa ra kiến nghị để các đối tượng kiểm tra tìm biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động, ngăn ngừa sai phạm. 

Điểm nữa, trong quá trình kiểm tra, cần coi trọng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện dân chủ cơ sở, các hoạt động nội bộ của cơ quan, đơn vị. Tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy sức mạnh, dựa vào “tai mắt” của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.

 


Chiến thắng 30-4- Chiến thắng của sức mạnh niềm tin

 



Vào những ngày này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hân hoan chào mừng kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2022) và ngày Quốc tế Lao động 1-5 với tinh thần mới, khí thế mới: đã đẩy lùi đại dịch Covid-19, vững tin bước vào cuộc sống bình thường mới; cả nước “chung sức đồng lòng”, cùng vào cuộc triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; kế hoạch phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội năm 2022; lập thành tích cao nhất chào mừng kỷ niệm 68 năm Ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2022) và 132 năm Ngày sinh Bác Hồ kính yêu (19/5/1890 – 19/5/2022).

Gắn với những sự kiện trọng đại ấy là việc toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta luôn chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Niềm vui được nhân gấp bội, giúp chúng ta có thêm động lực, sức mạnh mới từ kết quả đáng trân trọng, đáng khích lệ sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Đây là chất “men” xúc tác vô cùng mạnh mẽ và hấp dẫn, có tác dụng kích thích, thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta vươn tới đỉnh cao, giành những thành tựu mới, vững chắc hơn; là sự chuẩn bị tốt nhất mọi công việc cần thiết để Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XIII sẽ diễn ra vào tháng 5-2022 tại thủ đô Hà Nội thân yêu.

Trong niềm vui hân hoan của ngày Hội Non sông: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và ngày Quốc tế Lao động 1-5, chúng ta phấn khởi, tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta anh hùng. Chúng ta lạc quan, tin tưởng vì những điều tốt lành đang đến với quê hương, đất nước hình chữ S sau gần 3 năm phải gồng mình chống đại dịch Covid-19, song chúng ta cũng luôn phải đề cao cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động. Chúng ta phải chủ động, tích cực hơn nữa để đấu tranh phản bác, đập tan các quan điểm sai trái thù địch, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ ta.

Vào thời điểm vô cùng nhạy cảm này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và phản động đang triệt để lợi dụng mạng xã hội tấn công ta vào dịp lễ tết dài ngày; khi quân và dân ta trên mọi miền đất nước hân hoan chào đón ngày chiến thắng 30-4 và Quốc tế Lao động 1-5, để tung tin, bôi nhọ, xuyên tạc sự thật, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta; phủ nhận chiến thắng 30-4; những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử do Đảng, Bác Hồ và cả dân tộc ta bằng ý chí, nghị lực và xương máu đã giành được.

Thành tựu của cách mạng Việt Nam đã khẳng định tầm vóc, giá trị và ý nghĩa của đường lối chính trị – quân sự nhân văn, nhân đạo và sâu sắc của một Đảng cách mạng do Bác Hồ sáng lập, đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945; đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ là Pháp và Mỹ; đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự thật bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế đã chứng minh rằng, hơn 92 năm qua, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những kỳ tích vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử, đem lại vị thế to lớn, rất đỗi tự hào về dân tộc anh hùng. Thế nhưng, càng đổi mới thành công, càng phát triển, tiến bộ bao nhiêu, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động lại càng điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bấy nhiêu. Chúng biết rõ sự thật nhưng “đội mũ ni che tai”, “phớt lờ”, làm ngơ trước những kết quả mà nhân dân ta đã đạt được, thậm chí chà đạp thô bạo lên những thành tựu ấy.

Chúng cho rằng, Đảng ta có được chút danh tiếng là do “ăn may”, “tình cờ” bởi “Đảng không có tài cán gì”, “thành tựu trong chiến tranh và trong đổi mới là do sự tình cờ, ngẫu nhiên, nhờ thời thế đem lại”, v.v.. Sự xuyên tạc vô liêm xỉ ấy là không thể chấp nhận. Đối với nhân dân ta – những người trong cuộc, đã từng chịu đựng gian khổ, đổ máu, hy sinh, chúng ta hiểu rõ giá trị của từng ngày sống trong hòa bình, độc lập, tự do và cái giá phải trả cho nó. Quyền phán xét đúng – sai, thực – hư như thế nào thuộc về chúng ta và những người có lương trị, là bạn bè trên thế giới – những người hiểu rõ chân lý; có đủ dũng khí và niềm tin để thừa nhận ai đúng, ai sai, đâu là phải, đâu là trái, đâu là thật và đâu là giả dối.

Sự thật ở Việt Nam đã chứng minh rằng, không bao giờ có chuyện hoang đường: Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và đánh thắng hai tên đế quốc đầu sỏ là Pháp và Mỹ; lãnh đạo nhân dân ta hơn 35 năm qua tiến hành đổi mới đất nước, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử lại là “chuyện ăn may”, “tình cờ”, “ngẫu nhien”… Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ năng lực lãnh đạo đất nước”, tạo ra những giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả, được cả thế giới thừa nhận thì làm sao có uy tín, vị thế to lớn trên trường quốc tế, được nhân dân Việt Nam tin theo, đồng tình, ủng hộ.

Chúng ta tin rằng những người có quan điểm đối lập với với Đảng ta biết quá rõ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự thật. Sự kiện chính trị ấy là một mốc son tươi thắm, đã được ghi vào sử sách; không thể nói bừa, nói càn đó là sự “bịa đặt”, hay “ăn may”, “tình cờ”, “ngẫu nhiên”. Sự ra đời của Đảng và hơn 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam là sự thật. Nó khẳng định kết quả của quá trình vận động, phát triển của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi, là một tất yếu lịch sử, gắn với hành trình tìm con đường cứu nước, công lao vĩ đại thuộc về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và cuộc vận động lịch sử cách mạng Việt Nam diễn ra từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong đó, sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những người Việt Nam yêu nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối chính trị, đáp ứng kịp thời những yêu cầu, đòi hỏi phải đưa phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đi theo lý tưởng cộng sản, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Sự thật là Đảng ta và Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Nhờ đó, Việt Nam có tên trên bản đồ thế giới, ngay sau đó, Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” rồi sau đó liên tục 21 năm dài đằng đẵng, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã đánh bại các kế hoạch xâm lược và leo thang của kẻ thù, giành chiến thắng 30-4; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa non sông về một mối, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

 Rõ ràng, Việt Nam giành thắng lợi phải là bên mạnh hơn, Mỹ – Ngụy thất bại phải là bên yếu hơn. Điều đó là sự thật 100%, nó không cho phép ai được nói sai, xuyên tạc sự thật, cho rằng chiến thắng 30-4, “Mỹ cút, ngụy nhào” là do “Đảng Cộng sản Việt Nam ăn may”, là “do tình hình thế giới đem lại”, v.v..

Nhìn lại “cơn địa chấn chính trị dữ dội diễn ra khắp trời Âu và thế giới”, nhất là sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu năm 1989, đã làm không ít người hoang mang, lo sợ. Thế nhưng, Đảng ta vẫn vững vàng trước “phong ba bão táp”, rất bản lĩnh và trí tuệ, tự tin chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bão giông, tiến lên phía trước, thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

Thực tiễn khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là minh chúng thuyết phục nhất, tin cậy nhất để bác bỏ mọi sự xuyên tạc, thông tin xấu, độc nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Để hoàn thành sứ mệnh của mình, luôn xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, Đảng ta luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đó là một yêu cầu khách quan để nâng cao phẩm chất, năng lực lãnh đạo và uy tín của một đảng cầm quyền. Vì vậy, Đảng lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách; đưa cách mạng giành thắng lợi này đến thắng lợi khác.

 Nhờ bám sát thực tiễn cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân, từng bước nghiên cứu, tìm tòi con đường cách mạng; Đảng ta có đủ khả năng đưa nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách, giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, xứng đáng “là đạo đức là văn minh”.

Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quy mô, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam được nâng lên rõ rệt. Mặc dù chịu tác động tiêu cực và rủi ro của kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng GDP trước khi Covid-19 diễn ra đạt trên 7%, cao hơn kế hoạch đề ra, Việt Nam được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá nằm trong nhóm 20 nền kinh tế đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2019. Sau đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2021 vẫn đạt 2,58%.

Cùng với đó, Đảng đã thành công trong lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc, rất tin cậy để Đảng ta thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ với 189 nước trên thế giới. Trong đó, có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực với uy tín cao. 

Dù đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng Đảng ta không “say sưa với chiến thắng”, như những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta châm chọc, kích bác, xuyên tạc, nói xấu Đảng ta.

Nắm vững diễn biến của tình hình mới, Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tận dụng tốt mọi thời cơ, vận hội để tiếp tục đưa đất nước tiến lên, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu.

Hân hoan với niềm tin chiến thắng 30-4 và những kỳ tích vĩ đại của cách mạng, chúng ta tuyệt đối tin tưởng rằng, với kinh nghiệm, uy tín, vị thế và trách nhiệm cao cả, Đảng nhất định đưa nhân dân Việt Nam bước lên đài vinh quang, sánh vai với cường quốc năm châu.

Chào mừng kỷ niệm Ngày chiến thắng 30-4 và Quốc tế Lao động 1-5, chúng ta luôn dành cho Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, sự ngưỡng mộ, lòng biết ơn, sự kính trọng và hết lòng hết sức phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, biến nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thành hiện thực.Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phản bác các quan quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng và lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng. Đó là lương tâm, trách nhiệm và lẽ sống của chúng ta./.

 Nhân Văn

29/4/22

Mô hình chống tham nhũng, tiêu cực ở Trung ương sẽ “hiện diện” ở địa phương

Mô hình chống tham nhũng, tiêu cực ở Trung ương sẽ “hiện diện” ở địa phương

 


Ông Nguyễn Thái Học nhấn mạnh sự cần thiết thành lập Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh theo mô hình ở Trung ương để có sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt. 

Tại cuộc họp ngày 11/3 vừa qua, Bộ Chính trị đã giao Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét, quyết định thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh (Ban chỉ đạo cấp tỉnh).


Đến nay, Đề án thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh đã cơ bản hoàn thiện. Bộ Chính trị đã cho ý kiến và sẽ trình Hội nghị Trung ương 5 sắp tới (hội nghị khai mạc ngày 4/5) xem xét, quyết định.

Đây không phải là lần đầu tiên có chủ trương thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh, trước đó, trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (Ban chỉ đạo ở Trung ương) do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu.

Sau đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng (năm 2007) đã bổ sung quy định Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng do Chủ tịch UBND đứng đầu. Ban chỉ đạo có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham nhũng trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tuy nhiên, sau Đại hội XI, Trung ương quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương trực thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Không thành lập Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố; tỉnh uỷ, thành uỷ trực tiếp lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Lập lại Ban Nội chính Trung ương, thực hiện chức năng một ban đảng và là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương; lập Ban nội chính ở các tỉnh uỷ, thành uỷ, giao Bộ Chính trị quyết định cụ thể.

Sớm chấm dứt tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”

Tại cuộc họp báo thông tin kết quả cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng, tiêu cực tổ chức chiều 27/4, Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên cho biết, việc tái lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hiện nay, không chỉ phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế mà quan trọng hơn phải chống tiêu cực, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Bởi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thì mới dẫn đến tham nhũng, đây mới là cái gốc, cái cơ bản cần phải chống.

“Đây là một nhiệm vụ mới, nhu cầu mới, với yêu cầu sâu hơn, cao hơn trước rất nhiều. Do vậy, nếu chỉ có Ban chỉ đạo ở Trung ương thì việc giải quyết vấn đề này ở địa phương sẽ bị hạn chế” – ông Nguyễn Văn Yên nói như vậy, đồng thời cho rằng, từ quá trình hoạt động của Ban Chỉ đạo ở Trung ương trong 10 năm qua có thể rút ra nhiều bài học, kinh nghiệm hay, có những kinh nghiệm có thể khái quát lại thành lý luận phòng chống tham nhũng và có thể tạo ra một phong trào đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực ở cơ sở.

Theo Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương, không có giải pháp nào nhanh hơn, tốt hơn để chấm dứt tình trạng “trên nóng dưới lạnh” chính là giải quyết vấn đề tại chỗ. Nếu việc gì cũng chờ Trung ương về địa phương thì sẽ không giải quyết hết được.

Ông cũng khẳng định việc tái lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh chỉ tốt hơn chứ không xấu đi vì không tăng biên chế, đồng thời khi có tổ chức, bộ máy, phát huy trí tuệ tập thể để bàn thảo thì chân lý sẽ sớm được sáng tỏ, việc xử lý các vấn đề, vụ việc ở địa phương được sâu sát, nắm bắt tình hình tốt hơn.

Ông Nguyễn Thái Học – Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương cũng cho rằng, hiện nay đặt ra yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải đồng bộ, quyết liệt, kết hợp giữa Trung ương và địa phương. Như vậy, việc thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh để lãnh đạo, chỉ đạo một cách trực tiếp, toàn diện công tác đấu tranh chống “giặc nội xâm” ở địa phương.

Theo ông, thời gian qua, các địa phương đã có sự chuyển biến rất tích cực trong cuộc chiến chống tham nhũng, đã chủ động phát hiện, xử lý một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Nhiều nơi đã bắt nhịp được yêu cầu chỉ đạo của Trung ương, ban hành chỉ thị về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, hoặc ban hành kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo, từ đó dần khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Nhiều địa phương khi tiến hành sơ kết, tổng kết đã đề nghị Trung ương cho thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh.

Do đó, ông Nguyễn Thái Học nhấn mạnh sự cần thiết thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh theo mô hình ở Trung ương để có sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, có hệ thống từ Trung ương tới địa phương; Trung ương sẽ kiểm tra, đôn đốc Ban chỉ đạo ở địa phương.

“Tổng Bí thư nhấn mạnh, Bộ Chính trị đã có chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh. Sắp tới, Ban Chỉ đạo ở cấp Trung ương không làm thay việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cho cấp tỉnh, mà do Ban Chỉ đạo cấp tỉnh triển khai, thực hiện. Trung ương chỉ đóng vai trò hướng dẫn, theo dõi, đầu tàu” – ông Nguyễn Thái Học nói.

Trước lo ngại thời gian qua đã có Bí thư Tỉnh ủy vi phạm nghiêm trọng và bị kỷ luật nghiêm khắc thì mô hình Ban chỉ đạo cấp tỉnh dự kiến do Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban liệu có phát huy hiệu quả, ông Nguyễn Thái Học cho rằng, khi Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban thì phải chịu trách nhiệm trước đảng bộ, chính quyền, trước nhân dân về công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nếu người đứng đầu không xứng đáng, không làm được thì sẽ có cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Tại phiên họp Thường trực Ban Chỉ đạo, Tổng Bí thư cũng đã đề nghị lãnh đạo các cấp, nhất là các cán bộ trong Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng cần thực sự liêm chính, vô tư trong sáng để lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả vì “tay đã nhúng chàm rồi thì không thể đấu tranh phòng, chống tham nhũng ”.

“Người đứng đầu Đảng ta đã nhấn mạnh: Người dân tin vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng là qua kết quả của công tác này. Bên cạnh đó, người dân cũng nhìn vào tấm gương của các cán bộ trong Ban chỉ đạo” – ông Nguyễn Thái Học thông tin.

“Chia lửa” với Trung ương

Ủng hộ chủ trương thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc – nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) cho rằng, qua thực tế phòng chống tham nhũng trong toàn hệ thống chính trị vừa qua cho thấy đã đến lúc phải thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh để tạo sự liền mạch, đồng bộ, thống nhất theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương.

Với sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan được trao quyền, nhiều vụ án tham nhũng lớn ở địa phương thời gian đã được phanh phui, làm sáng tỏ, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở đã bị xử lý với các hình thức kỷ luật nghiêm khắc. Điều đó cho thấy, tình hình tham nhũng ở một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi. Do vậy, cần thiết có Ban chỉ đạo ở cấp tỉnh để “chia lửa” với Trung ương trong việc chủ động tấn công, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, suy thoái trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

“Vụ việc nào cũng phải chờ Trung ương xử lý thì e rằng không thể giải quyết được hết. Khi thành lập cơ quan chống tham nhũng ở địa phương do Bí thư là trưởng ban, Ban Nội chính Tỉnh ủy là cơ quan thường trực thì sẽ sâu sát, bao quát tốt hơn, sớm phát hiện những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực”.

Ông Nguyễn Trọng Phúc nói như vậy, đồng thời nhấn mạnh những kết quả quan trọng đã đạt được của Ban Chỉ đạo Trung ương thời gian qua sẽ là đòn bẩy để công tác chống “giặc nội xâm” ở địa phương thời gian tới hiệu quả, đạt được các yêu cầu, kỳ vọng đã đặt ra./.

 

Không để “mắc bệnh mới chữa”

 


Câu châm ngôn của người Việt Nam “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, được hiểu không chỉ thuần túy là giữ gìn và chăm sóc, chữa trị đối với sức khỏe; mà rộng ra là trong mọi việc, đều phải nhìn xa, nhìn tổng thể nhằm phát hiện những thiếu sót, sai lầm từ sớm nhằm chấn chỉnh, không để xảy ra hoặc hạn chế thấp nhất hậu quả.

Đối với một đảng cầm quyền, điều đó có ý nghĩa sống còn.

Văn kiện đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kiểm tra là phải chủ động, đi trước một bước: “Ủy ban Kiểm tra các cấp chủ động thực hiện và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình hành động, phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm. Phải coi trọng khâu nắm tình hình giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế của Nhà nước để chủ động ngăn ngừa, phát hiện, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm từ khi mới manh nha, chớm phát sinh vi phạm, không để vi phạm từ một người thành nhiều người, từ ít nghiêm trọng trở thành nghiêm trọng”.

Mới đây nhất, ngày 27/4/2022, tại cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “công tác kiểm tra phải đi trước một bước”, “có dấu hiệu vi phạm là Ủy ban Kiểm tra có quyền vào kiểm tra”.

Với phương châm đó, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, công tác kiểm tra, giám sát ngày càng chủ động, tích cực hơn; qua đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng. Một ví dụ điển hình là đại án MobiFone mua cổ phần của AVG, công tác kiểm tra, giám sát đã giúp Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (viết tắt là Ban chỉ đạo – PV) có những quyết sách kịp thời. Căn cứ kết luận của Ban chỉ đạo, các cơ quan chức năng đã khẩn trương điều tra, truy tố, xét xử; thu hồi được hầu hết số tiền khoảng 7.000 tỷ đồng (tương đương 340 triệu USD) ngân sách nhà nước bị “phù phép”, suýt trở thành tài sản cá nhân.

Trong vụ án này, một cựu bộ trưởng và một bộ trưởng đã phải lâm vòng lao lý; đáng chú ý, số tiền 3 triệu USD “nhận hối lộ” cũng được thu hồi vào ngân sách nhà nước…

Từ thời điểm đó, không ít quan chức đương nhiệm khi trót “nhúng chàm” thì rất khó thoát tội; khi nghỉ hưu rồi cũng không thể “hạ cánh an toàn”. Điển hình là các ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn… Riêng ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương, bị Ban Bí thư xử lí nghiêm khắc bằng hình thức xóa tư cách Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Công Thương giai đoạn 2011-2016; đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nghiêm khắc ra Nghị quyết xóa tư cách nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương. Cuối tháng 4/2021, tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Vũ Huy Hoàng đã bị tuyên phạt mức án 11 năm tù về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”. Ngày 6/7/2021, tại Hội nghị lần thứ 3 (khóa XIII), Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thi hành kỷ luật ông Vũ Huy Hoàng bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng.

Với một số trường hợp khác, tưởng là “việc nhỏ” nhưng sự vào cuộc kịp thời của cơ quan chức năng, của Ủy ban Kiểm tra các cấp, thậm chí là ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đã giúp vụ việc từng bước được sáng tỏ, lộ dần ra những sai phạm lớn; hoặc kịp thời ngăn chặn những sai phạm, hậu quả lớn có thể xảy ra. Điển hình như vụ “chiếc xe Lexus biển xanh” hoặc vụ “Quán cà phê Xin Chào”… Từ sự chỉ đạo sát sao, cụ thể của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đã tạo ra hiệu ứng tích cực trong việc an dân, phát hiện và xử lí những vụ việc nhức nhối có nguy cơ “chìm xuồng” vì muôn vàn lí do như “nhạy cảm”, cần giữ “ổn định”, tránh làm “vỡ bình”. Lần lượt những vụ việc sai phạm, thất thoát trong đầu tư công, những công trình ngàn tỉ đắp chiếu, những trường hợp sai phạm trong bổ nhiệm cán bộ… đã bị Ủy ban Kiểm tra các cấp vào cuộc làm rõ, xử lí triệt để.

Trở lại vấn đề triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, một trong những nội dung quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát được nghị quyết nhấn mạnh là: “Chú trọng kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của UBKT các cấp, tập trung vào các vấn đề quan trọng và bức thiết như: Quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài chính, ngân sách, thuế, hải quan, các chương trình an sinh xã hội, cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm. Xử lý nghiêm minh tổ chức đảng và đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, nghị quyết, chỉ thị quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên…”.

Với sự tích cực, chủ động, “đi trước một bước” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã làm rõ những cá nhân, tổ chức liên quan đến các vụ việc tày đình như: Vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; Đưa hối lộ; Nhận hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, xảy ra tại Công ty Việt Á; Vụ án “Tham ô tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng; Vụ án “Tham ô tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam…

Mới đây, từ những kết quả công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra… Ban Chỉ đạo cũng thống nhất đưa một số vụ việc nghiêm trọng vào diện theo dõi, chỉ đạo: Vụ án “Đưa hối lộ, Nhận hối lộ” xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số cơ quan liên quan; Vụ án “Thao túng thị trường chứng khoán” xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC; Vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh; Vụ việc sai phạm liên quan đến Dự án bất động sản tại số 33 Nguyễn Du, số 34-36-42 Chu Mạnh Trinh, TP Hồ Chí Minh; các vụ án buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới liên quan đến Nguyễn Thị Kim Hạnh và những cán bộ, đảng viên có hành vi tiêu cực liên quan đến vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại An Giang…

Dĩ nhiên, chúng ta không vui vẻ gì khi có nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp bị xử lí kỉ luật, song đúng như phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị công tác kiểm tra giám sát của Đảng  ngày 24/2/2017: “Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình; không thích thú gì khi phải kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình; trái lại, rất khổ tâm, đau xót. Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật; kỷ luật một vài người để cứu muôn người!”.

Và để ít phải xử lí kỉ luật, công tác kiểm tra cần và phải đi trước một bước!

 

28/4/22

47 năm thống nhất đất nước: Hòa hợp, hòa giải và lợi ích dân tộc cốt lõi


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đưa đất nước Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tròn 47 năm thống nhất đất nước cũng là chừng ấy thời gian Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.

Chính sách hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà nước ta dựa trên lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn, nhân dân làm chủ, đoàn kết gắn bó máu thịt giữa hơn 98 triệu người trong nước với hơn 5 triệu người Việt ở nước ngoài.

Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh, là chìa khóa quyết định thành công của cách mạng Việt Nam.

Người nêu rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ.

Ngày 19/12/1946, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Thấm nhuần tư tưởng của Bác, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam trong mọi giai đoạn cách mạng đều nêu cao tinh thần đại đoàn kết để tập hợp tất cả “hễ ai là người Việt Nam” vì lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc. Điều này càng được thể hiện rõ nét từ sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975.

Chính sách hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà nước Việt Nam lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng của mọi người có dòng máu Việt, dù ở trong nước hay nước ngoài. Nhà nước ta tạo điều kiện cho mọi người, kể cả những người từng làm việc trong chế độ cũ, về thăm, đóng góp để xây dựng quê hương.

Tháng 1/1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII của Đảng chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy mọi năng lực sáng tạo của công nhân, nông dân và trí thức, các tầng lớp, các giai cấp, các tôn giáo, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh: “Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, ở cả trong nước và nước ngoài, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đảng xác định phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công – nông – trí làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài…

Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cụ thể hóa về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai… trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

Ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tại hội nghị này, Đảng ta sử dụng thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Các Đại hội X, XI, XII và XIII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng to lớn của đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt vai trò, đóng góp của người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài đối với đất nước.

Đặc biệt, ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Nghị quyết 36-NQ/TW).

Nghị quyết 36-NQ/TW nêu rõ: Mặc dù sống xa Tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình, quê hương. Nhiều người đã có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, có mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Không đào bới quá nhưng không phủ mờ lịch sử

Để đất nước có được độc lập, thống nhất trọn vẹn, nhân dân được sống trong hòa bình như ngày nay, chúng ta đã trải qua các cuộc trường kỳ kháng chiến với những hy sinh, mất mát lớn lao. Cả nước có 1.146.250 liệt sỹ, trong đó 191.605 liệt sỹ trong kháng chiến chống Pháp, 849.018 liệt sỹ trong kháng chiến chống Mỹ, 105.627 liệt sỹ trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo…); khoảng hơn 4 triệu dân thường đã thiệt mạng hoặc bị thương tật suốt đời do chiến tranh.

Chúng ta không đào bới quá khứ để nuôi hận thù, làm sâu sắc thêm sự mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ. Nhưng chúng ta không lãng quên lịch sử; ghi nhớ sự mất mát trong chiến tranh để trân trọng hòa bình và những thành quả có được ngày hôm nay.

Chúng ta ghi nhận thái độ hòa giải, thiện chí hòa hợp, đóng góp xây dựng đất nước từ phía những người từng quay lưng với lợi ích cốt lõi của dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Nhưng bên cạnh đại đa số người Việt Nam ở nước ngoài có thiện chí hòa hợp, hòa giải, vẫn còn một bộ phận cố chấp, hằn học, chống phá, sau gần nửa thế kỷ đất nước được thống nhất, non sông thu về một mối mà vẫn gọi ngày 30/4 là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”. Hòa hợp, hòa giải không phải là cái cớ để những người này đưa ra những đòi hỏi phi lý đối với đất nước, đánh tráo chân lý, đổi trắng thay đen, bóp méo ý nghĩa lịch sử trọng đại của Ngày thống nhất đất nước, phủ nhận những thành tựu kinh tế-xã hội-đối ngoại mà Việt Nam đã nỗ lực đạt được trong 47 năm qua, đặc biệt là sau gần 36 năm đổi mới.

Thực tế đã chứng minh: Đông đảo bà con người Việt ở nước ngoài hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, mong muốn đất nước cường thịnh, sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đã về thăm gia đình, quê hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, nhân đạo, từ thiện…

Mở rộng vòng tay đón nhận những người con xa quê hướng về Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi để bà con trở về nguồn cội, thăm thân, thờ cúng tổ tiên, đóng góp cho quê hương đất nước; đã ban hành nhiều chính sách, cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng thông thoáng, thuận tiện và đơn giản thủ tục; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi… liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài; giải quyết có tình, có lý và trên cơ sở đạo lý Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại, nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc.

Vậy mà, một số ít người Việt Nam ở nước ngoài đến nay chưa có dịp trở về, chưa được tận mắt thấy được những thành tựu phát triển đất nước; hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất nước, cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam…

Với bộ phận thiểu số này, với những hành vi cố tình chống đối chủ trương hòa giải, lợi dụng chính sách hòa hợp để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, cố tình “đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước”, Đảng, Nhà nước và nhân dân sẽ không nhân nhượng. Họ sẽ phải đối mặt với sự xa lánh của cộng đồng, lạc lõng giữa dòng chảy mạnh mẽ của cả dân tộc hướng về phía trước. Và “những viên sỏi hận thù” bé nhỏ ấy, chắc chắn sẽ chìm nghỉm dưới đáy sông.

 


Kiểm tra “củi lửa” và điểm tựa niềm tin


Giờ đây, người dân tạo nếp quen chờ đợi hàng tháng những thông báo kết luận của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương với những câu hỏi “tháng này củi lửa thế nào”, ai “nhúng chàm”, xử lý ra sao. Cái từ “củi lửa” cũng trở thành ngôn từ quen thuộc, cửa miệng, xuất phát từ những câu nói dễ hiểu, dễ hình dung của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Nhìn rộng ra, các kết luận của UBKT Trung ương như một điểm tựa của niềm tin trong công cuộc chống tham nhũng, xử lý quan chức suy thoái, tiêu cực, để lòng dân vững tin thêm với Đảng, với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn “không có vùng cấm”.

Nhiều người băn khoăn, cơ quan UBKT Trung ương có từ lâu và các kết luận, xử lý cũng là việc chuyên môn thường ngày, vậy tại sao gần đây lại tạo nên sức hút, sự để tâm lớn như vậy? Nghiên cứu điều này, chúng ta thấy trước đây, những bản kết luận kiểm tra của Đảng thường là tài liệu nội bộ, chỉ được công bố trong tổ chức Đảng. Khi đảng viên nào đó sai phạm, bị xử lý kỷ luật thì thường chỉ trong nội bộ biết, chỉ một số trường hợp thông tin lên báo chí.

Vì thế, nhiều khi đảng viên bị xử lý kỷ luật nhưng đi làm việc thì cơ quan, tổ chức và nhân dân vẫn không hay biết, thậm chí họ vẫn chăm chú nghe những đảng viên này giáo huấn như “tấm gương sáng”. Giờ đây, quan niệm đó đã thay đổi. Cái gì thuộc nội bộ và cái gì công khai đã rõ ràng, minh bạch theo tiến trình dân chủ. Người dân giám sát cán bộ, đảng viên thì về nguyên tắc, người dân phải biết được đảng viên của mình có thành tích, khen thưởng hay vi phạm, bị xử lý kỷ luật ra sao.

Người dân có quyền được biết và cơ quan chức năng có nhiệm vụ công bố cho dân biết, đó là hai mặt của một vấn đề. Sự công bố rộng rãi vừa đảm bảo nguyên tắc nhân dân làm chủ, nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, vừa có ý nghĩa cảnh báo, răn đe, phòng ngừa rất hữu hiệu. Khi sai phạm được kiểm tra và công bố công khai, để muôn dân được biết, tính răn đe của công tác kiểm tra, kỷ luật tăng lên.

Đồng thời, kết luận của UBKT Trung ương tạo sự quan tâm đặc biệt trong công luận kể từ khi Đảng ta thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII với tinh thần xử lý nghiêm minh. Chính tinh thần mạnh tay, quyết liệt với vấn nạn tham nhũng, quan liêu, công cuộc “nhóm củi đốt lò” của Đảng đã tạo ra sự lan toả mạnh mẽ trong đời sống xã hội.

Nghị quyết đến nay thực sự mang thương hiệu, đó là thương hiệu của niềm tin, của tình cảm người dân với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng dưới sự chèo lái của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Căn cứ chức trách, nhiệm vụ được giao, UBKT Trung ương làm rõ những sai phạm của đảng viên, tổ chức đảng theo thẩm quyền và xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo đúng quy định của Đảng, đồng thời chuyển cơ quan quản lý Nhà nước xử lý về mặt pháp luật.

Có thể thấy, nổi lên trong các kết luận về sai phạm của cá nhân, tổ chức đảng được UBKT Trung ương nêu ra là vi phạm về nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này nếu do người đứng đầu vi phạm kéo dài sẽ dẫn đến cả tổ chức đảng cơ quan, đơn vị đó trì trệ, gây hệ luỵ lớn về vật chất và tinh thần. Đáng chú ý, có những ngành, lĩnh vực, các sai phạm không phải mang tính hiện tượng của một, hai cá nhân mà liên quan nhiều thế hệ lãnh đạo, nhiều nhiệm kỳ kế tiếp nhau.

Nổi cộm trong số đó chính là sai phạm tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Từ năm 2005 đến 2017, PVN đã trải qua 4 đời Chủ tịch và cả 4 cựu lãnh đạo trên đều bị truy cứu hình sự do liên quan đến tham nhũng. Ông Đinh La Thăng- Chủ tịch PVN từ 2005-2011bị tuyên án 18 năm tù vì làm thất thoát 800 tỉ đồng trong vụ góp vốn vào Oceanbank và 13 năm tù trong vụ án liên quan đến Tổng công ty CP Xây lắp dầu khí (PVC).

Tháng 1/2019, ông Đinh La Thăng lại bị khởi tố thêm vì liên quan đến dự án ethanol Phú Thọ “đắp chiếu”. Nối gót ông Đinh La Thăng, ông Phùng Đình Thực – cựu Tổng Giám đốc, Chủ tịch PVN giai đoạn 2011-2014, bị Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an khởi tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại Điều 165, BLHS.

Cựu Chủ tịch PVN giai đoạn 2014-2015 là ôngNguyễn Xuân Sơn cũngbị khởi tố và bắt giam trong đại án OceanBank – Hà Văn Thắm. Hiện, ông Nguyễn Xuân Sơn bị tòa phúc thẩm tuyên tử hình về tội “Tham ô tài sản”. Kế gót ông Sơn, ôngNguyễn Quốc Khánh – Chủ tịch PVN giai đoạn 2016-2017 bị khởi tố và bắt giam về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Như vậy, tính đến nay, 4 đời Chủ tịch PVN là các ông Đinh La Thăng, Phùng Đình Thực, Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Quốc Khánh đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, các cá nhân dưới quyền, các lãnh đạo nhiều công ty trực thuộc PVN cũng nằm trong “danh sách đen” đã và đang bị điều tra, xử lý.

Cùng với đó là những sai phạm có tính cấu kết chặt chẽ giữa các cá nhân lãnh đạo và ở nhiều cấp lãnh đạo. Từ đó dẫn đến sai phạm “theo chùm”, điển hình là những cán bộ sai phạm thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam; vụ Việt Á với đường dây tiêu cực liên quan nhiều ngành, nhiều địa phương. Khi mở rộng kiểm tra, điều tra, danh sách sai phạm lại tăng lên. Từ thực tiễn đó, có ý kiến nói rằng, nếu cứ xử lý nhiều như thế thì lấy đâu ra cán bộ để làm và “anh em lo lắng, không còn tinh thần làm việc”.

Chúng tôi cho rằng, những lý lẽ nói trên là không có cơ sở. Việc làm rõ, xử lý nghiêm thể hiện sự tôn nghiêm của pháp luật, ai sai phải chịu trách nhiệm và tính bình đẳng, không để người này sai phạm thì bị xử lý, người kia lại không. Từ việc xử lý nghiêm minh sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe để phòng ngừa chung, để những người sau biết lo ngại về “lằn ranh luật pháp” mà tự ý thức hành vi bản thân.

Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định, việc điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án liên quan tới nhiều trường hợp là cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý đã tiếp tục khẳng định quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư lưu ý, cần tiếp tục đẩy mạnh, kiên trì, thường xuyên, liên tục với quyết tâm cao hơn, mạnh mẽ hơn, đạt được nhiều kết quả hơn trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không có chuyện dừng lại và không thể dừng, phải quyết tâm cao hơn, đây là yêu cầu của Đảng, của nhân dân.

“Không sợ thiếu cán bộ, bởi không thiếu cán bộ tâm huyết với Đảng, trách nhiệm với dân với đất nước. Không sợ mất uy tín; chỉ không làm, không xử lý cán bộ vi phạm mới tự đánh mất uy tín của mình” – Tổng Bí thư nêu rõ.

Số liệu tại Hội nghị toàn quốc giao ban công tác kiểm tra, giám sát của Đảng quý I năm 2022 cho thấy, quý Inăm 2022,UBKT các địa phương, đơn vị kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 297 tổ chức đảng và 921 đảng viên.

Hiện nay UBKT Trung ương đang có 20 đoàn kiểm tra dấu hiệu vi phạm (tăng gần 3 lần so với cùng kỳ năm trước) và chỉ đạo cấp ủy và UBKT 63 tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với một số tổ chức đảng và đảng viên.

Theo Chủ nhiệm UBKT Trung ương Trần Cẩm Tú, điểm nổi bật trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong quý I năm nay là nhiều việc xảy ra từ lâu hay mới phát sinh đều được phát hiện, kiểm tra, xử lý kịp thời.

Cá biệt, có những vụ việc xảy ra cách nay tới 3 nhiệm kỳ. Dù việc cũ nhưng vẫn phải kiểm tra, báo cáo, xử lý, qua đó chứng minh sự quyết tâm của Đảng trong cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Nhấn mạnh tình hình vi phạm, suy thoái còn phức tạp, thậm chí tinh vi, nghiêm trọng hơn, diễn ra ở nhiều cấp, nhiều ngành,Chủ nhiệm UBKT Trung ương đề nghị cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp tiếp tục tham mưu xây dựng, hoàn thiện thể chế về công tác kiểm tra, giám sát, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đảm bảo khoa học, chặt chẽ, đồng bộ, phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Đăng Minh

 


Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái về chính sách hòa hợp dân tộc của Việt Nam

 


Hòa hợp dân tộc ở Việt Nam là một trong những truyền thống nhân văn, thể hiện ý nghĩa về sự đoàn kết và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thời gian qua, tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống dân tộc, Đảng và Nhà nước đã triển khai, áp dụng một cách khoa học, hiệu quả giá trị này; xem đây là một trong những yếu tố cấu thành khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp đất nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, với cái nhìn hạn hẹp, định kiến cùng những âm mưu phá hoại, các thế lực chống đối và thù địch vẫn thường xuyên tạc, phủ nhận chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VỀ HÒA HỢP DÂN TỘC

Hiện nay, các thế lực chống đối và thù địch thường xuyên đưa ra các quan điểm sai trái, xuyên tạc và phủ nhận về chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Bên cạnh các tài liệu, văn bản phát tán trái phép, họ đã tận dụng triệt để sự phát triển của công nghệ số mà điển hình là dùng Internet để chống phá. Thông qua một số website, các mạng xã hội, các ứng dụng (app) chạy trên nền tảng điện thoại thông minh…, các thế lực thù địch đã tăng cường xuyên tạc, bóp méo về chính sách hòa hợp dân tộc của Việt Nam.

Có thể nhận diện các quan điểm, luận điệu sai trái xuyên tạc và phủ nhận về hòa hợp dân tộc qua các nhóm vấn đề sau:

Thứ nhất, các thế lực chống đối và thù địch cho rằng ở Việt Nam không có hòa hợp dân tộc thực sự vì xã hội Việt Nam luôn có sự bất đồng và mâu thuẫn giữa các tộc người với nhau, đặc biệt là mâu thuẫn giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số, giữa người Công giáo và phần còn lại của dân tộc…

Đặc điểm chung của các bài viết này là đưa ra những những nhận định, những quan điểm hồ đồ và hết sức phiến diện, kiểu như “Chúng ta cần hòa giải giữa các sắc tộc thiểu số và người Kinh. Chúng ta cần hòa giải giữa người Nam và người Bắc. Chúng ta cần hòa giải giữa người Công giáo và phần còn lại của dân tộc, nhất là với Phật giáo. Chúng ta cần hòa giải giữa cộng đồng người Việt hải ngoại với đất nước…”; “vấn đề hoà giải, hoà hợp vẫn còn nhức nhối”, “có lẽ dân tộc Việt Nam sẽ cần đến 50 năm nữa mới có thể chữa lành”; “hòa giải và hòa hợp dân tộc vẫn chưa thực hiện được tại Việt Nam”… (!?)

Thứ hai, họ cho rằng các chính sách, luật pháp về hòa giải, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam hiện nay là “đãi bôi”, “con đường nửa vời”; Đảng và Nhà nước Việt Nam không có thiện chí trong quá trình hòa hợp dân tộc.

Với quan điểm này, họ đưa ra những bài viết cực đoan để phủ nhận chính sách, pháp luật về hòa giải, hòa hợp dân tộc cũng như luôn nghi ngờ về thiện chí của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ngụy biện hơn, họ rêu rao rằng: “đa số người dân cả trong và ngoài nước đều cho rằng không thể có hòa hợp, hòa giải với chính sách hiện nay của chính phủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản…”(!?).

Thứ ba, họ tự nhận mình là “người đại diện” cho “nguyện vọng của đa số” để tuyên truyền đề xuất cho cái gọi là “phương cách hòa hợp”.

Để cổ súy cho luận điệu này, trên một số website hải ngoại, với những bài viết công kích, xuyên tạc, các thế lực chống đối và thù địch cho rằng chỉ có họ mới có thể đưa ra cách hiểu đúng cho hòa giải, hòa hợp dân tộc: “Hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một trong ba lập trường căn bản của tập hợp dân chủ đa nguyên”(!?) và vu khống: “có sự thiếu tin tưởng vào thực tâm và thiện chí muốn hòa giải của các bên”… Những người này cũng tự huyễn hoặc cho mình cái quyền “đại diện” để đề ra “phương cách song phương và đơn phương” để tiến hànhhòa giải hòa hợp. Theo đó, “phương cách song phương” là “đại diện hai bên Việt Nam và Việt Quốc ngồi lại với nhau để cùng giải quyết mâu thuẫn căn bản (!?)”; còn “Phương cách đơn phương” là yêu cầu đảng và nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay phải “thực tâm, có thiện chí” (!?)…

Thứ tư, lợi dụng tính chất dễ dàng tìm kiếm, dễ truy cập của mạng Internet, các thế lực chống đối và thù địch đã thường xuyên dẫn lại, cố tình chỉnh sửa (edit) các thông tin một cách bừa bãi mà không có và không cần nguồn kiểm chứng nhằm phá hoại, xuyên tạc. Theo số liệu thống kê, các thế lực thù địch đã “sử dụng khoảng 50 đài phát thanh, truyền hình, gần 400 tờ báo, tạp chí tiếng Việt, trong đó có khoảng 10 tờ có nội dung rất phản động, 66 nhà xuất bản để tuyên truyền, chống phá cách mạng Việt Nam…”(1).

Thứ năm, họ cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn cấm đoán và hạn chế các nghiên cứu về văn hóa, văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Vì thế vẫn chưa có sự hòa giải, hòa hợp dân tộc (!?).

Để minh họa cho luận điệu trên, các thế lực chống đối và thù địch cố tình căn cứ vào một số quy định mà Đảng và Nhà nước ta ban hành trong giai đoạn 1975-1985 và chủ ý lờ đi những đổi mới trong lý luận và thực tiễn, cũng như những thành tựu từ 1986 đến nay, từ đó khẳng định: hiện nay Việt Nam vẫn cấm đoán và hạn chế các nghiên cứu về văn hóa, văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975…

SAI LẦM CỦA CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ HÒA HỢP DÂN TỘC

Nhìn chung, dù được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tựu trung, các quan điểm sai trái trên đều nhằm cùng mục đích: cố tình xuyên tạc, bôi nhọ chính sách hòa hợp của Đảng và Nhà nước ta, qua đó hòng kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, thay đổi và phá hoại sự ổn định chính trị – xã hội và cuối cùng là đòi đa nguyên đa đảng.

Qua nhận diện các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc về hòa hợp dân tộc, chúng tôi xin làm rõ các nội dung sau:

Thứ nhất, sai lầm khi cho rằng ở Việt Nam không có hòa hợp dân tộc thực sự

Thực tiễn cho thấy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhất là từ khi có Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, ở Việt Nam không có sự bất đồng và mâu thuẫn giữa các tộc người với nhau, đặc biệt là giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số.

Chúng ta biết rằng, mâu thuẫn hoặc xung đột tộc người, tôn giáo thường bắt nguồn từ sự khác biệt về hệ tư tưởng, lợi ích (kinh tế) và cả những khác biệt văn hóa… giữa các tộc người, tôn giáo. Tuy nhiên điều này chỉ đúng ở tầm bao quát chung của nhân loại, hoặc đã và đang diễn ra ở một số nước, khu vực trên thế giới. còn ở Việt Nam lại hoàn toàn khác. Trải qua suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam cũng đã có những xung đột hoặc cuộc chiến xảy ra (ví dụ như sự chuyển tiếp, thay thế quyền lực giữa các vương triều: Đinh, Lý, Trần, Hồ, Lê…; phân tranh Trịnh – Nguyễn; Đàng Trong – Đàng Ngoài…) nhưng các cuộc chiến, xung đột này (bao gồm những liên minh và đối địch, tạm thời hay lâu dài) không phải là xung đột hoặc chiến tranh mang màu sắc thanh trừng sắc tộc, tôn giáo mà chỉ là các cuộc chiến, xung đột dựa trên quyền lợi thiết thân với tính chất chuyển giao hoặc thôn tính quyền lực, lợi ích được thực hiện bởi các vua, chúa; ở mỗi bên “tham chiến”, đội quân thường là sự tập hợp lực lượng bao gồm những người cùng chung mục đích về lợi ích kinh tế, quyền lợi hay địa vị xã hội… được xuất thân từ nhiều thành phần dân tộc, tầng lớp xã hội khác nhau.

Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống lâu đời, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, với hơn 14 triệu người (chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước)(2). Mặc dù người Kinh là dân tộc chiếm đa số, nhưng thực tế cho thấy dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vai trò và tham gia vào bộ máy chính quyền cũng như những đóng góp vào đời sống xã hội của người dân tộc thiểu số ngày càng được đảm bảo. Đơn cử như trong Quốc hội, số lượng đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã tăng dần theo các khóa: Khóa I: 10,2%, khóa XIII: 15,6%, khóa XIV: 17,3%, khóa XII: 17,7%, khóa XV: 17,84%.

Trong quan hệ tôn giáo, thực tiễn cũng đã chứng minh Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo và không có sự mâu thuẫn hoặc xung đột giữa các tôn giáo, tín ngưỡng; các tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bình đẳng, không bị phân biệt đối xử và được Nhà nước bảo hộ hoạt động bằng pháp luật; người dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Điều này đã được kiểm chứng, thừa nhận bởi nhiều quốc gia, nhiều tổ chức tôn giáo lớn trên thế giới. Trong Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế – Việt Nam 2018 của Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã khẳng định: “Hiến pháp (của Việt Nam) quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm cả quyền tự do không theo một tôn giáo nào. (…) Hiến pháp quy định tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật và nhà nước phải tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp cấm công dân vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” và “Việt Nam là thành viên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”(3).

Trong sinh hoạt, vào những ngày lễ lớn của các tôn giáo ở Việt Nam (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo…), lãnh đạo Đảng và Nhà nước đều tới thăm, chúc mừng và cùng các tôn giáo hướng tới lẽ sống “tốt đời đẹp đạo”. Đặc biệt, với đặc tính dung hòa sẵn có của đời sống văn hóa Việt Nam, trong hầu hết các lễ hội tôn giáo, ngoài sự hiện diện của tín đồ, còn có rất nhiều người dân, thậm chí là tín đồ của các tôn giáo khác cũng đến xem lễ, tham quan, du lịch, tìm hiểu văn hóa, tín ngưỡng…

Thứ hai, rất ấu trĩ khi cho rằng các chính sách, luật pháp về hòa giải, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam hiện nay là “đãi bôi”, “con đường nửa vời”; Đảng và Nhà nước Việt Nam không có thiện chí trong quá trình hòa hợp dân tộc.

Phát huy truyền thống văn hóa dân tộc kết hợp thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc: “Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(4), Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính sách, luật pháp cùng những hành động thiết thực về hòa giải, hòa hợp dân tộc, có thể kể đến Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Quy chế miễn thị thực cho người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị 45-CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới… Đặc biệt, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã được Đảng cụ thể hóa vào các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, như: “đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”(5), “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại”(6), “Làm tốt công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài và tranh thủ tối đa nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp phục vụ phát triển đất nước”(7). Các cơ quan chuyên trách về công tác người Việt ở nước ngoài (Ủy ban người Việt ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao) cũng đã làm tốt công tác hòa hợp, hòa giải dân tộc thông qua giúp người Việt Nam ở nước ngoài ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội sở tại, hướng về Tổ quốc…

Những lý lẽ nêu trên cho thấy: không hề có cái gọi là “đãi bôi” hay “con đường nửa vời” trong việc ban hành các chính sách, luật pháp về hòa giải, hòa hợp dân tộc của Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn tỏ rõ thiện chí trong quá trình hòa hợp dân tộc. Trong đó, việc chủ động chào đón sự trở về của những kiều bào từng làm việc cho chế độ cũ, từng rời bỏ đất nước… là minh chứng tiêu biểu nhất. Trường hợp của nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ là một ví dụ điển hình. Trở về quê hương sau gần 30 năm xa xứ, ông đã khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là chính sách đúng đắn của chính phủ Việt Nam, trong đó xem kiều bào ở nước ngoài là một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam”(8). Hoặc như trường hợp của nguyên chuẩn tướng, quyền Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Hữu Hạnh: Từ khi còn nắm giữ quyền lực trong chế độ cũ cho đến lúc qua đời (2019) tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhân sĩ Nguyễn Hữu Hạnh đã có những việc làm thiết thực, trở thành “một tấm gương tiêu biểu của những người Việt Nam chân chính, có tinh thần dân tộc và yêu nước, cho dù chỗ đứng ở đâu, cương vị thế nào vẫn luôn hướng về đất nước và dân tộc”(9).

Có thể thấy, để kiều bào quay trở về, ngoài yếu tố hướng về nguồn cội thì thiện chí cùng với sự đảm bảo về pháp luật của Đảng và Nhà nước chính là điều kiện quan trọng nhất. Các chính sách tốt đẹp cùng hệ thống luật pháp nghiêm minh của Đảng và Nhà nước về hòa hợp dân tộc đã trở thành cơ sở vững chắc để bà con Việt kiều thay đổi định kiến, thay đổi tư duy và trở về chung sức xây dựng quê hương.

Không chỉ dang tay đón nhận những người con Việt Nam thiết tha thực tâm trở về với đất mẹ, Đảng và Nhà nước còn có những việc làm thiết thực, nhân văn để giúp đỡ, bảo hộ công dân đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Việc hỗ trợ người bị nạn (bao gồm cộng đồng người Việt) trong cơn bão Katrina năm 2005 ở Mỹ; việc khuyến cáo và có những hành động kịp thời để bảo hộ công dân tránh khỏi những tổn thất về người và của trước những xung đột, biểu tình, đảo chính ở một số nước, khu vực; việc tiến hành đưa người Việt ở nước ngoài trở về Tổ quốc trước đại dịch COVID-19… đã chứng minh cho thiện chí hòa hợp và tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau”.

Thứ ba, hoàn toàn ngộ nhận và sai lầm khi các thế lực thù địch tự nhận mình là “người đại diện” cho “nguyện vọng của đa số” để tuyên truyền, đề xuất về cái gọi là “phương cách hòa hợp”.

Xét ở góc độ luật pháp, “đại diện” là việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lí trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Quyền đại diện được xác lập theo sự ủy quyền, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật… Trong hiến pháp và pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới, “đại diện” là một trong những chế định quan trọng được ghi nhận. Ví dụ như tại Mục 1, Điều 3 của Hiến pháp Nga: “Nhân dân Nga đa sắc tộc là đại diện cho chủ quyền và là nguồn duy nhất của quyền lực ở Liên bang Nga”(10), hoặc trong Điều 135, Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam, “quyền đại diện” cũng được quy định rõ: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện; theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”(11)… Lấy cơ sở pháp lý làm căn cứ, chúng ta thấy những hoạt động (từ phát ngôn cho đến các hành động cụ thể) của những người trong Việt Tân, Việt Quốc, Khối 8406, Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời… chỉ nhân danh cho chính bản thân họ hoặc cho một nhóm người “cùng chung tham vọng”; việc đưa ra các “tuyên ngôn” chẳng qua chỉ là chiêu bài lừa mị những người nhẹ dạ cả tin, những người đã lâu không có điều kiện nắm bắt tình hình trong nước…; các bài viết đăng tải trên Internet của họ chỉ thể hiện quan điểm cá nhân, nhóm người và hoàn toàn không phải là quan điểm đại diện cho nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, những người này không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào (sự ủy quyền, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều lệ pháp nhân, quy định của pháp luật…) để có thể “đại diện” cho số đông hay “nguyện vọng của đa số”, nhất là khi nguyện vọng của đa số ở đây không phải là mong ước chính đáng, phù hợp của tất cả các tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị – xã hội Việt Nam, mà chỉ là tham vọng của một nhóm người mang mưu đồ ích kỷ, xấu xa.

Khi đã không có cơ sở pháp lý để “đại diện” cho “nguyện vọng của đa số” thì cái gọi là “phương cách hòa hợp” cũng chỉ là viển vông. Đối với những kẻ không có tư cách đại diện, lại thường xuyên sử dụng các hành động khủng bố thì dĩ nhiên các “phương cách hòa hợp” chỉ đơn thuần là một cách diễn đạt nhằm đánh tráo khái niệm, và mục đích chính là nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, cuối cùng là đòi đa nguyên đa đảng tại Việt Nam.

Thứ tư, ấu trĩ và sai lầm khi lợi dụng tính chất dễ dàng tìm kiếm, truy cập của mạng Internet để dẫn lại, chỉnh sửa (edit) các thông tin một cách bừa bãi, không có và không cần nguồn kiểm chứng… nhằm xuyên tạc, phá hoại chính sách hòa hợp dân tộc.

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện nay, nhất là khi nhân loại đã bước vào kỷ nguyên số thì việc dẫn nguồn, biên tập lại một cách méo mó thông tin sớm muộn cũng sẽ bị phát hiện, tẩy chay. Trong khi đó, chỉ cần lướt qua trên Internet, người ta rất dễ tìm được những thông tin đã được kiểm chứng rõ ràng. Ví dụ như các chương trình “Xuân Quê hương”, “Trại hè dành cho thanh thiếu niên người Việt ở nước ngoài”… mà chúng ta đã và đang tiến hành đã được rất nhiều hãng thông tấn báo chí, các website trên thế giới thừa nhận và đăng tải. Mặt khác, tình trạng tin giả hiện nay cũng đã được hầu hết các tổ chức, quốc gia cảnh báo và bài trừ. Về vấn đề này, xin dẫn lại một khuyến nghị trên Trang tin tức của Tòa thánh Vatican (Vatican News) trong việc cảnh báo những tin giả (fake new) âm mưu chia rẽ sự đoàn kết về tôn giáo (trong đó có Công giáo) ở Việt Nam như sau: “Trong thời đại hiện nay, Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng là mảnh đất tốt để chúng ta có thể thực hiện việc loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, nó đồng thời cũng là mảnh đất màu mỡ cho những thông tin “phản – Tin Mừng” phát triển, nhưng lại mạo danh hay núp dưới danh nghĩa của Giáo hội Công giáo. Trong hoàn cảnh ở Việt Nam, điều này vô cùng nguy hiểm!”(12).

Thứ năm, sai lầm khi cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn còn cấm đoán và hạn chế các nghiên cứu về văn hóa, văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 để quy chụp rằng chưa có sự hòa giải, hòa hợp dân tộc.

Thời gian qua, đặc biệt là từ những năm ‘80 của thế kỷ XX trở lại đây, việc nghiên cứu văn hóa, văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có nhiều chuyển biến, cởi mở, “quan điểm chính thức được khẳng định hiện nay là, ủng hộ việc đẩy mạnh nghiên cứu, chọn lọc phổ biến các giá trị đích thực của văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975 trên tinh thần hòa hợp dân tộc để hàn gắn vết thương, đoàn kết mọi người cùng nhìn về một phía, thực hiện hòa hợp dân tộc bằng con đường văn hóa văn nghệ.”(13). Đặc biệt, trong nghiên cứu khoa học chuyên sâu, đã có nhiều luận văn, luận án, chuyên luận lấy văn hóa, văn học đô thị miền Nam (1954-1975) làm đối tượng nghiên cứu, như: Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền Nam trước năm 1975 của Nguyễn Phúc (Luận án Tiến sĩ, 1995); Lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954–1975 của Trần Hoài Anh (Luận án Tiến sĩ, 2009); Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô thị miền Nam 1954–1975 của Nguyễn Thị Việt Nga (Luận án Tiến sĩ, 2012); Con người và những giá trị văn hóa truyền thống trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 của Nguyễn Thị Thu Trang (Luận án Tiến sĩ, 2008); Đặc điểm tùy bút ở đô thị miền Nam (1954–1975) của Bùi Tiến Sỹ (Luận án Tiến sĩ, năm 2017); Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945-1975 của Nguyễn Bá Thành (Nxb. Đại học Quốc gia, 2016); Những nguồn cảm hứng trong văn học của Huỳnh Như Phương (Nxb. Văn nghệ, 2009); Văn học Sài Gòn 1954-1975: Những chuyện bên lề của Lê Văn Nghĩa (Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2020)… Ngoài ra, nhiều tác phẩm văn – sử – triết học cùng các công trình nghiên cứu có giá trị xuất bản trước 1975 ở miền Nam, nay cũng đã được công nhận và lưu hành… Như vậy, không có cái gọi là “tồn tại những cấm đoán” trong nghiên cứu khoa học về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, có chăng, chỉ là sự cố tình dựng chuyện và sự vu khống của các thế lực thù địch.

*

Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp là quan điểm hòa hợp, hòa giải nhân văn của bất cứ quốc gia tiến bộ nào trên thế giới. Với tư cách là một quốc gia có độc lập chủ quyền, có luật pháp và có vị thế quan trọng trên chính trường quốc tế, Việt Nam đã và đang làm tốt công tác hòa hợp dân tộc, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Tuy nhiên, hòa hợp không đồng nghĩa với xuyên tạc lịch sử, với vi phạm pháp luật. Chúng ta dang rộng vòng tay chào đón mọi người con Việt Nam từ khắp nơi trên thế giới trở về trong hòa bình, trở về với tâm thế xây dựng đất nước… nhưng chúng ta cũng cương quyết không chào đón, thậm chí phải loại bỏ những kẻ cơ hội, trở về nhằm mục đích chia rẽ, phạm pháp và phá hoại đoàn kết dân tộc./.

 

Tăng cường kiểm tra, giám sát để Đảng thêm vững mạnh

Tăng cường kiểm tra, giám sát để Đảng thêm vững mạnh

 


Kiểm tra, giám sát (KTGS) vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ.

Trong tình hình mới, phần việc này cần được đặc biệt coi trọng, thực hiện triệt để, thực chất trong toàn Đảng và hệ thống chính trị, góp phần xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức gánh vác, lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng vẻ vang.

Bài 1: Không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo

Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nói chung, các nhiệm vụ chính trị cụ thể nói riêng đạt được đến đâu, hiệu lực, hiệu quả ra sao, đều chịu sự ảnh hưởng, tác động sâu sắc của công tác KTGS. Từ các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo đương nhiệm của Đảng, Nhà nước ta và cả trong hệ thống các văn kiện của Đảng đều thể hiện rất rõ tinh thần nhất quán: Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo.


Khi bàn về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, V.I.Lênin khẳng định kiểm tra như là nội dung, phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng; vì có chủ trương đúng, có tổ chức thực hiện nhưng thiếu kiểm tra cũng rất khó đạt kết quả tốt được. Lênin còn nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, kiểm soát và coi đây là công cụ chắc chắn nhất để bảo vệ những mầm mống của xã hội mới. Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải nắm chắc công tác kiểm tra và gợi ý: Theo ý tôi, điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang lựa chọn người và kiểm tra việc thực hiện. Đó là vấn đề then chốt nhất… nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh càng đặc biệt quan tâm đến công tác KTGS, bởi theo Người “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ được năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”. Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng (ngày 29-7-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”.

Là chính đảng tiền phong cách mạng, ngay từ khi mới thành lập, cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là khi đã trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, đồng thời xác định: Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng; muốn lãnh đạo thì phải kiểm tra, không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Điều lệ Đảng tháng 10-1930 đã ghi rõ: “Trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách rất nghiêm khắc”.

Trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sự phát triển của tổ chức đảng, công tác KTGS luôn được Đảng chú trọng. Ngày 16-10-1948, tại Chiến khu Việt Bắc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Quyết nghị số 29-QN/TW về việc thành lập Ban Kiểm tra Trung ương-cơ quan kiểm tra chuyên trách đầu tiên của Đảng. Quyết nghị có đoạn ghi: “… Trung ương quyết định thành lập Ban kiểm tra đi xuống các khu xét xem chủ trương của Đảng có được thi hành và có sát đúng không, đồng thời, xem xét sự thi hành kỷ luật trong Đảng để thu thập kinh nghiệm giúp Trung ương bổ khuyết chính sách của Đảng”. Sau đó, các ban kiểm tra của khu ủy, liên khu ủy lần lượt được thành lập.

Từ khi ra đời đến nay, cơ quan kiểm tra chuyên trách của Đảng đã nhiều lần được bổ sung, điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ, phát triển về tổ chức và đội ngũ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982), Điều lệ Đảng quy định đảng ủy cơ sở được cử ủy ban kiểm tra (UBKT). Từ đó, UBKT được thành lập thành một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất từ Trung ương đến đảng ủy cơ sở. Cùng với sự phát triển của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác KTGS được tiến hành thường xuyên, hiệu quả góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, như: Thực hiện 3 chống (chống tham ô, lãng phí, quan liêu) ở ngành mậu dịch trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp; thực hiện Nghị quyết số 228-NQ/TW của Bộ Chính trị, khóa III về chống và bài trừ tệ lấy cắp tài sản XHCN, tệ làm ăn phi pháp; thực hiện Chỉ thị số 192-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, khóa III về việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng; kiểm tra thực hiện “chế độ lãnh đạo có kiểm tra” theo Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư khóa V; thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW của Bộ Chính trị, khóa VII về ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng, buôn lậu; thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII…; thực hiện các Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI và khóa XII), Kết luận của Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; cùng hàng loạt các chủ trương, nghị quyết, kết luận, quy định quan trọng khác về công tác KTGS của Đảng.

Thực tiễn cách mạng cho thấy, bất kỳ lúc nào, bất kỳ đâu mà công tác KTGS bị buông lỏng hoặc xem nhẹ, thì việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng sẽ bị lệch lạc, chỉ đạo tổ chức thực hiện dễ dẫn đến sai lầm. Đồng thời, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ không đạt hiệu quả cao, mọi dấu hiệu, biểu hiện vi phạm kỷ luật không được phát hiện từ sớm để ngăn chặn kịp thời. Hệ quả tất yếu là dẫn đến tình trạng đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, vi phạm tư cách, đạo đức cách mạng. Những điển hình như vụ Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu (năm 1950) hay Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trương Việt Hùng (năm 1964) bị tử hình vì những vi phạm pháp luật là minh chứng cho việc cán bộ, đảng viên sai phạm trong thời gian dài nhưng không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời để phải xử lý. Thời gian gần đây, ở một số bộ, ban, ngành, địa phương không thực hiện tốt công tác KTGS, dẫn đến tình trạng thực hiện sai chủ trương, nghị quyết của Đảng, Chính phủ, vi phạm pháp luật, “lợi ích nhóm”, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ chủ trì các cấp. Điều đó không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, mà còn làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ ta.

Tăng cường công tác KTGS để phát hiện, ngăn chặn, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí là quyết tâm chính trị lớn của Đảng. Đặc biệt, những năm gần đây, kết quả công tác KTGS đã thực sự góp phần đưa kỷ cương, kỷ luật Đảng được tăng cường thêm một bước; nhiều cơ chế mới phòng ngừa vi phạm được bổ sung, nhận thức về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên được nâng lên; góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi kỳ họp của UBKT Trung ương đều mang lại những kết quả cụ thể, rõ rệt trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; được đông đảo nhân dân quan tâm, đồng tình ủng hộ. Xử lý đúng người, đúng vụ việc không phải là cuộc đấu đá, thanh trừng nội bộ, mà là “chặt những cành sâu để cây xanh tốt”, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chính điều đó đã tạo hiệu ứng lan tỏa đến các tổ chức cơ sở đảng, đưa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở thành hành động cách mạng quyết liệt, hiệu quả cao ở mọi cấp, mọi ngành và toàn xã hội.

Khẳng định những kết quả nổi bật của công tác KTGS, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Công tác KTGS, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động KTGS của cấp ủy, UBKT các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là cấp Trung ương. Qua công tác KTGS, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác KTGS, kỷ luật Đảng. Triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác KTGS, kỷ luật đảng, phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.

Trong bối cảnh tình hình mới, cùng với những tác động đa chiều của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường; sự chống phá quyết liệt, nguy hiểm của các thế lực thù địch; cuộc chiến chống “giặc nội xâm” trở nên phức tạp, cấp bách… Để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đòi hỏi công tác KTGS phải được đổi mới, tăng cường, hiệu quả thiết thực hơn nữa. Tinh thần đó thể hiện sâu sắc trong phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị tổng kết công tác KTGS nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng (ngày 27-11-2020): KTGS là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Đảng ta khẳng định, kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng; lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và đều phải chịu sự KTGS, thi hành kỷ luật của Đảng. KTGS là “thanh bảo kiếm để chữa lành các vết thương”.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 18-4-2022, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 34-KL/TW về Chiến lược công tác KTGS của Đảng đến năm 2030. Đây là chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của công tác KTGS trong tình hình mới. Kết luận được ban hành tạo ra định hướng lớn, thể hiện tầm nhìn dài hạn nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác KTGS, kỷ luật đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết, thống nhất và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, kiên quyết xử lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị. Kết luận thể hiện rõ nét những bước thay đổi và phát triển tư duy, thích ứng kịp thời của Đảng nhằm đưa công tác KTGS đi vào nền nếp, thực hiện có chiều sâu, đạt hiệu quả, tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Nhấn mạnh vị trí, vai trò đặc biệt của công tác KTGS, chúng ta cần tiếp tục nêu bật, phân tích và làm sâu sắc hơn những kết quả, dấu ấn to lớn trong công tác KTGS của Đảng ở những nhiệm kỳ gần đây; đồng thời không được thỏa mãn dừng lại trước những gì đã đạt được, mà cần sớm nhận diện tồn tại, vướng mắc, khó khăn để sớm có giải pháp tháo gỡ đồng bộ, triệt để. Tất cả những vấn đề này sẽ được đề cập ở những bài viết tiếp theo.