Nhằm phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch đã không ngừng đưa ra những quan
điểm sai trái về các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác -Lênin; phủ nhận tính
đúng đắn, hợp lý của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thổi
phồng khuyết điểm, hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta cần sử dụng những giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là vũ khí sắc bén, để phản bác quan điểm sai
trái, đập tan mọi thủ đoạn, âm mưu của các thể lực thù địch. NHẬN DIỆN MỘT
SỐ LUẬN ĐIỂM SAI TRÁI VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TẠI VIỆT NAM
Thứ nhất, thế
lực thù địch đưa luận điệu sai trái về những quy luật cốt lõi trong hệ thống học
thuyết của kinh tế chính trị Mác – Lênin nhằm khẳng định vị trí của
chủ nghĩa tư bản và đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản
Quy luật giá trị
là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa mà đỉnh cao là nền kinh tế
thị trường. Những kẻ chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin muốn phủ định quy luật giá
trị khi đưa ra những hiện tượng, sự vật cá biệt để chứng minh quy luật này sai,
không còn ý nghĩa và giá trị khoa học trong thời đại ngày nay. Những kẻ tự cho
mình hiểu học thuyết Mác – Lênin đã sử dụng những ví dụ cũ rích và đã sai ngay
từ phương pháp tiếp cận khi lấy một sự vật, hiện tượng cá biệt nằm ngoài quy luật
kinh tế trong hệ thống học thuyết Mác để phủ nhận giá trị khoa học trong những
nghiên cứu của ông. Họ dựa vào những hình thái của hàng hóa trong xã hội hiện đại,
đánh đồng giữa trí tuệ nhân tạo với máy móc để khẳng định máy móc cũng tạo ra
giá trị thặng dư – từ đó cổ vũ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chỉ
trích chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, lạc hậu, xóa nhòa đi ý nghĩa to lớn của quy luật
sản xuất giá trị thặng dư mà Mác đã dày công nghiên cứu, phát hiện. Những thế lực
thù địch còn đề cập đến những nội dung xoay quanh vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất,
dùng những thứ dân chủ giả hiệu để phê phán sở hữu của chủ nghĩa xã hội. Chúng
cho rằng, chủ nghĩa xã hội sẽ cướp đi quyền sở hữu của con người, cổ súy cho việc
dùng quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để nô dịch lao động của người
khác; khẳng định sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản sẽ xóa bỏ bóc lột thông qua
việc đề cập đến những chính sách ưu đãi công nhân, người lao động của các tập
đoàn tư bản lớn.
Cố tình hạ thấp,
thậm chí phủ nhận giá trị khoa học của quy luật giá trị, quy luật sản xuất giá
trị thặng dư, thế lực thù địch muốn khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của chủ
nghĩa tư bản, đánh đồng kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản. Chúng coi kinh
tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản, và cả chủ nghĩa tư bản cũng như
kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản là xu hướng tất yếu và duy nhất của
nhân loại. Chúng cho rằng sẽ không cần và không có một mô hình kinh tế thị trường
nào khác kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Từ đó, chúng đưa ra quan điểm phủ
nhận chủ nghĩa xã hội, phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Thứ hai,
dùng những quan điểm phi khoa học để khẳng định sự mâu thuẫn giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, cho rằng bản chất của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chỉ ra sự tên gọi
riêng có của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những kẻ
chống phá cách mạng Việt Nam đã vội vàng phủ định mô hình kinh tế thị trường
này. Chúng dùng những quan điểm phi khoa học khẳng định sự mâu thuẫn của kinh tế
thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng “lớn miệng” cho rằng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không dựa trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà là mô hình được xây dựng theo ý
chí chủ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng cho rằng đây là một mô hình non
trẻ, không có học thuyết kinh tế trên thế giới nào nghiên cứu và công nhận.
Với những luận
điệu xuyên tạc, phi khoa học trên, những thế lực thù địch âm mưu phá hoại tôn
chỉ hoạt động của Đảng ta là lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm cốt, chúng muốn làm lung lay lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân về sự
kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Thứ ba, xoáy
sâu, thổi phồng những hạn chế, bất cập của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của Đảng, từ đó đưa ra yêu sách thay
thế vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những mặt
trái của quá trình vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thế lực thù địch đã xuyên tạc về năng lực lãnh đạo nền kinh tế đất nước của Đảng.
Chúng thổi phồng khuyết điểm của Đảng, từ những cá nhân cán bộ, đảng viên sai
phạm trong các vụ án kinh tế lớn, chúng quy chụp thành bản chất của đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những kẻ chống phá cách mạng Việt Nam đã dùng mọi thủ đoạn để
hạ thấp uy tín của Đảng, làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân với
Đảng. Mục đích của chúng là muốn phá hoại khối đoàn kết dân tộc, muốn thay thế
vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
NHỮNG GIÁ TRỊ
KHOA HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH PHỦ ĐỊNH NHỮNG QUAN ĐIỂM
SAI TRÁI, ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC ĐỊCH
Một là, chủ
nghĩa tư bản chắc chắn sẽ bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế thị trường hiện đại, là phương
thức để Việt Nam xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những người cộng
sản chân chính, những học sinh, sinh viên, trí thức hay những người đã từng đọc,
từng nghiên cứu một cách nghiêm túc học thuyết kinh tế của Mác đều sẽ nắm được
phương pháp nghiên cứu trừu tượng hóa khoa học – là gạt bỏ những cái không phổ
biến, không làm ảnh hưởng đến quy luật chung khỏi quá trình kinh tế được nghiên
cứu. Nhân loại bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo,
máy móc hiện đại có thể thay thế người lao động trong nhiều hoạt động sản xuất,
kinh doanh, nhưng không thể xóa bỏ được nền tảng cũng như khuôn khổ của chủ
nghĩa tư bản – bóc lột lao động làm thuê. Những người cho rằng học thuyết của
Mác về nguồn gốc giá trị thặng dư là lỗi thời thì họ đã mâu thuẫn ngay trong
chính luận điểm của mình khi tách trí tuệ nhân tạo, khoa học công nghệ ra khỏi
giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động.
Những kẻ không
thực sự hiểu quy luật sản xuất giá trị thặng dư, luôn tung hô cho những thứ dân
chủ giả hiệu, gieo rắc những ý hiểu sai trái khi cho rằng chủ nghĩa xã hội sẽ
xóa bỏ quyền sở hữu của con người. Nhưng họ đã cố tình hiểu sai, hoặc chưa
nghiên cứu đủ kỹ để biết rằng, từ năm 1848, trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác
đã viết “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản
phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô
dịch lao động của người khác”(1).
Dùng quyền sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất để chiếm đoạt giá trị thặng dư, bóc lột sức lao động
của người lao động là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Dù chủ nghĩa tư bản phát
triển, tiến bộ và có liên tục điều chỉnh thì cũng sẽ không khi nào thay đổi được
quan hệ người bóc lột người trong mỗi hoạt động của nền sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa. Mác đã phát hiện ra bản chất cốt lõi này của chủ nghĩa tư bản, và dự
đoán về sự diệt vong, bị thay thế của xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, với sự
phát triển của các công ty cổ phần, những thương vụ IPO diễn ra trên phạm vi
toàn cầu, những người chống lại chủ nghĩa Mác đề cao quan điểm công nhân là chủ
của chính mình (khi được sở hữu cổ phiếu của công ty), và từ đó đưa ra kết luận
phi logic, thiếu thuyết phục: trong chủ nghĩa tư bản không còn tình trạng người
bóc lột người. Ngay cả khi người công nhân có thể sở hữu cổ phiếu của công ty,
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi, bởi đa số cổ phiếu nằm
trong tay chủ tư bản (chế độ ủy nhiệm thể hiện rõ điều này). Do đó, quyền quyết
định hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là quyền phân phối giá trị thặng dư vẫn
không thuộc về người lao động.
Những bất công,
bất bình đẳng do chủ nghĩa tư bản mang lại sẽ khiến xã hội này trở nên lạc hậu
và bị thay thế bởi xã hội chủ nghĩa xã hội, đó là điều mà Mác dự đoán dựa trên
cơ sở khoa học và từ thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dựa vào những
thành tựu, khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, các thế lực thù địch thổi
bùng lên sự hoài nghi, thậm chí phủ định khả năng thay thế chủ nghĩa tư bản của
chủ nghĩa xã hội. Những nước tư bản đứng đầu nền kinh tế thế giới, thiết lập ra
những luật chơi cho nhiều nền kinh tế nhỏ hơn đã đưa đến những nhận định chủ
quan, phi khoa học về sự tồn tại vĩnh cửu của chủ nghĩa tư bản. Sự phân hóa
giàu – nghèo, sự bất bình đẳng là những mâu thuẫn không thể dung hòa, nó sôi sục
mạnh mẽ chính trong lòng của xã hội tư bản chủ nghĩa trước đây, hiện tại và
tương lai. Những cuộc đình công của công nhân vẫn không ngừng nổ ra trên toàn cầu,
mà nguyên nhân chính phần lớn là do giá trị sức lao động của họ đã không được
trả một cách xứng đáng. Bằng mọi cách chiếm đoạt thành quả lao động của giai cấp
công nhân, lợi ích chủ yếu thuộc về người sở hữu tư liệu sản xuất đã thấm đẫm
vào bản chất của chủ nghĩa tư bản, và như Mác nói, đó là quy luật kinh tế cơ bản,
quy luật tuyệt đối trong phương thức sản xuất của xã hội này. Do đó, nếu chỉ
nhìn những biểu hiện bên ngoài, khi công nhân được tăng lương, khi có những người
lao động được đãi ngộ, đào tạo mà phủ nhận bản chất bóc lột của của nghĩa tư bản
thì cần phải đọc lại, thậm chí đọc lại nhiều lần học thuyết của Mác để hiểu bản
chất của chủ nghĩa tư bản. Như vậy, những giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chứng minh bản chất và sự phải bị thay thế của
chủ nghĩa tư bản.
Mặt khác, kinh
tế thị trường không phải sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là sản phẩm
của văn minh nhân loại được phát triển đỉnh cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
“Không “xuyên qua” kinh tế thị trường thì loài người không thể thoát khỏi vòng
luẩn quẩn tự cấp tự túc; không thể vượt qua những giới hạn lịch sử chật hẹp của
xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến; cũng không thể kiến tạo được xã hội
tư bản và cũng không thể tạo lập được những điều kiện, tiền đề để xây dựng một
chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn trong tương lại – xã hội xã hội chủ nghĩa”(2).
Hãy nhìn lại các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới: dù trong cùng một mô
hình kinh tế thị trường tự do mới, nhưng kinh tế thị trường ở Anh và Mỹ cũng
luôn tồn tại những điểm khác biệt; kinh tế thị trường xã hội ở các nước (điển
hình là các nước Bắc Âu) cũng không giống nhau y hệt; hay kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc đã giúp đất nước này vươn lên vị trí thứ
hai trong nền kinh tế thế giới…. Sự khác biệt giữa các mô hình kinh tế thị trường
nêu trên do yếu tố thể chế, hay do “mức độ, liều lượng” nhà nước can thiệp vào
thị trường tạo nên. Và trong thế giới đương đại, dù là mô hình kinh tế thị trường
nào cũng cần phải có sự quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những khuyết tật cố
hữu của kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, việc
khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường sẽ mang lại lợi ích cho ai,
cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động hay bảo vệ cho những nhà tư bản lại
phụ thuộc vào chế độ chính trị mà mỗi quốc gia lựa chọn. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một hình thái kinh tế thị trường với đầy đủ tính chất,
đặc điểm chung như những nền kinh tế thị trường khác trên thế giới. Với sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới đảm bảo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình Việt Nam kiên
định với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đồng thời đảm bảo nền kinh tế được tuân
theo những quy luật khách quan. Đây là phương thức để Việt Nam tích lũy cơ sở vật
chất kỹ thuật, chuẩn bị những điều kiện tiền đề để bước lên một xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất
cơ bản và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Sau khi thất bại
trong việc phủ nhận giá trị cốt lõi trong các học thuyết kinh tế chính trị của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, qua đó, phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, các thế lực thù địch lại chuyển hướng chỉ trích kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình không xuất phát từ chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Có thể khẳng định,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình được sáng tạo từ
những giá trị cốt lõi, nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Mác, “giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội nọ sang xã hội kia”(3). Đây là một thời kỳ lâu dài, khó khăn, phức
tạp. Lênin phân tích rõ hơn tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, “… vì cải tổ
sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những
thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, và vì phải trải qua một cuộc
đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói
quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản”(4). Lênin cũng đưa ra
chính sách kinh tế mới (NEP) nhằm khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế,
phát triển quan hệ hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Giải quyết mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất là nội dung cốt lõi của kinh
tế chính trị Mác – Lênin mà bất cứ thời đại nào cũng cần chú trọng. Việt
Nam đang trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã vận dụng đúng đắn
và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thừa nhận những bất cập
do quá trình cải biến cách mạng xã hội tạo thành, để từ đó không ngừng điều chỉnh,
xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn, tích lũy cơ sở vật chất cho xã hội
xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, các thành phần kinh tế không ngừng phát triển, mang
lại những đóng góp tích cực cho nền kinh tế Việt Nam. Song, Đảng cũng thẳng thắn
thừa nhận còn tồn tại tình trạng bóc lột trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đây là một hiện tượng kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường,
nhưng với sự lãnh đạo, định hướng của Đảng trong xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta không để tình trạng này trở
thành bản chất của nền sản xuất cũng như bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ
qua địa vị thống trị của giai cấp tư sản chứ không phải phủ nhận hoàn toàn những
yếu tố tích cực, tiến bộ của chủ nghĩa tư bản. Như Lênin đã từng khẳng định: những
người cộng sản phải học tập các chuyên gia tư sản cách làm kinh tế, phải “hấp
thu được toàn bộ nền văn hóa của thành thị, của công nghiệp, của chủ nghĩa tư bản”
và “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt đẹp của nước ngoài: Chính quyền
Xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ +
ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc.++=Σ = chủ nghĩa xã hội”(5). Vận
dụng tư duy khoa học đó, Việt Nam tiếp nhận khoa học công nghệ, phương thức quản
lý, … của chủ nghĩa tư bản, đồng thời dùng luật pháp, dùng các chính sách an
sinh, phúc lợi xã hội để xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện đại, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Những đóng góp tích cực của các thành phần kinh tế cũng như những
thành tích vượt trội của Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới là những câu trả
lời rõ ràng cho những luận điểm xuyên tạc sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh của Đảng.
Bên cạnh đó, giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa không hề tồn tại tính mâu thuẫn
đối kháng, ngược lại còn bổ trợ, thống nhất với nhau. Mục tiêu lớn nhất của
kinh tế thị trường là lợi nhuận, lợi ích kinh tế, còn mục tiêu của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xây dựng tiền đề vật chất cho chủ nghĩa
xã hội. Mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội có thể tồn tại những mâu thuẫn
trong ngắn hạn, nhưng không phải là những mâu thuẫn loại trừ nhau. Với Việt
Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là biến mục tiêu lợi
nhuận (trong kinh tế thị trường) thành phương tiện, công cụ để đạt được mục
tiêu xã hội (đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa). Do đó kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là một mô hình kinh tế phát huy được hết sức
mạnh của các nguồn lực, đảm bảo lợi ích kinh tế được đặt trong mối quan hệ sâu
sắc với tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa không phải là một phép cộng đơn thuần mà là mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu chỉ chú trọng đến lợi
ích kinh tế mà bỏ quên hoặc xem nhẹ các mục tiêu xã hội thì bất bình đẳng, phân
hóa giàu nghèo và hàng loạt những vấn đề kinh tế xã hội khác sẽ nảy sinh, chúng
ta có thể sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn trong xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và xã
hội như nhiều nước tư bản lớn hiện nay đang phải đối mặt.
Thứ ba,
trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta đã thẳng thắn đối diện với các tồn tại, hạn chế, quyết tâm thực
hiện khát vọng xây dựng một Việt Nam thịnh vượng.
Trước những thất
bại khi không đủ luận cứ khoa học phản bác tính cấp thiết, tính ưu việt của mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, những kẻ chống
phá cách mạng Việt Nam lại quay sang tấn công vào những khuyết điểm, hạn chế của
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hòng làm mất
uy tín, danh dự của Đảng. Chúng nhân danh những người yêu nước, nhân danh sự
dân chủ, tự do để kích động quần chúng nhân dân, lôi kéo một bộ phận nhỏ đảng
viên, trí thức chống lại Đảng, Nhà nước.
Thực tế, quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
quá trình đan xen giữa sự thay thế của cái mới và cái cũ, của tính hiện đại với
tính lạc hậu, của một nền sản xuất tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và một nền
sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Mặc dù còn những hạn chế xuất phát từ cả nguyên nhân
chủ quan và khách quan, nhưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và thu được những kết quả đáng ghi nhận.
Thành tựu phát triển kinh tế Việt Nam hôm nay là những minh chứng không thể phủ
nhận về sự đúng đắn, sáng tạo trong lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước những nốt
trầm của nền kinh tế, những kẻ hô hào dân chủ giả hiệu còn quy chụp Đảng, Nhà
nước triệt tiêu dân chủ. Có chế độ độc tài nào lại hướng tới xây dựng một nhà
nước của dân, do dân và vì dân? Có chế độ độc tài nào lại liên tục cải cách thể
chế kinh tế – xã hội theo hướng bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân? Hàng
trăm Bộ luật, Luật được điều chỉnh theo hướng tích cực, hiện đại, phù hợp với
xu hướng phát triển của đất nước và các thông ước, quy định quốc tế. Có chế độ
độc tài nào lại lãnh đạo nền kinh tế tham gia hàng chục các FTA lớn, nhỏ, thậm
chí là những hợp đồng thương mại thế hệ mới, hiện đại nhất toàn cầu? Nếu Đảng
và Nhà nước ta không tôn trọng và phát huy dân chủ, đặc biệt dân chủ trong kinh
tế thị trường thì Việt Nam đã không thể duy trì một nền hòa bình với nhiều
thành tựu vượt trội trong kinh tế và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội như ngày nay. Những thành tựu đó không do một quốc gia nào ban phát, chúng
ta đạt được bằng sự tự lực, tự cường, từ chính sức mạnh nội sinh của quốc gia
mình. Sức mạnh nội sinh đó không chỉ là tinh thần yêu nước, giá trị tinh hoa
văn hóa dân tộc, mà còn là hệ tư tưởng chân chính và những hành động đúng đắn,
quyết tâm xây dựng một Đảng, Nhà nước mà ở đó lợi ích của quốc gia, dân tộc được
đặt lên cao nhất; một Đảng không chỉ của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động
mà còn thực sự giải phóng người lao động.
Không những tấn
công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, thế lực thù địch còn tập trung tấn công
vào hạt nhân của Đảng – cán bộ, đảng viên. Chúng dẫn chứng những vụ án kinh tế
lớn để bình luận, phân tích những cán bộ, đảng viên sai phạm, suy thoái đạo đức
đã bị xử lý kỷ luật và quy chụp họ là đại diện cho đa số đảng viên. Những luận
điểm thiếu tính thuyết phục này chỉ làm dao động một bộ phận nhỏ những người
không nắm vững lý luận cách mạng của Đảng, sa sút về phẩm chất chính trị, không
tôn trọng và biết ơn lịch sử. Còn lại, đại đa số nhân dân, cán bộ, đảng viên đều
đồng lòng, ủng hộ sự quyết tâm của Đảng trong rèn luyện, xử lý cán bộ, xây dựng
đảng trong sạch vững mạnh. Dám thẳng thắn thừa nhận và kiên quyết xử lý, khắc
phục hạn chế của mình, Đảng ngày càng củng cố vững chắc niềm tin trong nhân
dân, cán bộ đảng viên. Do đó, lấy sai phạm của một vài cá nhân để bôi nhọ danh
dự của một Đảng, một đất nước là một hành động sai cả về lý luận và thực tiễn.
Những kẻ cố tình không thừa nhận lý luận khoa học và xuyên tạc sự thật thì
không thể đáng tin và càng không thể mang lại những điều tốt đẹp cho một dân tộc.
Sau hơn 35 năm
đổi mới, tên gọi Việt Nam đã ngày càng trở nên quan trọng trong chuỗi giá trị
toàn cầu, trong bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Với vị trí là một trong 20
nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế, xây dựng quan hệ ngoại giao với 189
quốc gia và vùng lãnh thổ; … dân tộc Việt Nam có niềm tin, có khát vọng về một
Việt Nam hùng cường thịnh vượng. Và niềm tin ấy luôn gắn liền cùng sự kiên định
với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn liền với niềm tin vào vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.